*Thành tựu Đạt được:
Đổi mới
giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào
tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho
giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được
phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo
dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số
lao động đang làm việc. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện
qua trình độ chuyên môn kỹ thuật, cụ thể là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm
đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Nãm
2015, cả nước có hơn 10,5 triệu lao động được đào tạo trong tổng số 52,9 triệu
lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm, chiếm 19,9%.
* Ngoài những mặt đạt
được, nguồn lực lao động còn nhiều hạn chế, yếu kém:
Chất lượng
giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân
lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của
xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao
chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực,
ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục
còn bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục
còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
*Giải pháp
về giáo dục đào tạo cần tập trung để nâng cao chất lượng nguồn lao
động:
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đã
từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng. Đặc biệt, trong Nghị quyết số 29
của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) khẳng định đây không chỉ là quốc sách hàng
đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là
“mệnh lệnh” của cuộc sống. Đây là tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột
phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng
định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy
nghề”.
Để “đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực” đạt hiệu quả cao, chúng ta phải
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học đó là:
-Một là, đổi
mới chương trình, nội dung theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp
với trình độ và ngành nghề.
-Hai là, đổi
mới công tác biên soạn sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy học theo hướng
đa dạng hóa, cập nhật tri thức mới, đáp ứng yêu cầu của từng bậc học, các
chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của từng đối tượng.
-Ba là, đối
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra,
đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng.
-Bốn là, hoàn
thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập…
-Năm là, đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất;
tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; thực
hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội, tăng cường công tác
kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm dân chủ, công khai,
minh bạch.
-Sáu là, đổi
mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
lực đầu tư để phát triển giáo dục – đào tạo.
-Bảy là, nâng
cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt
là khoa học giáo dục và quản lý…
Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta được
nêu trong Văn kiện Đại hội XII, về thực chất là một cuộc cách mạng trong lĩnh
vực này, hiệu ứng của nó sẽ làm biến đổi tích cực nhiều mặt của đời sống xã hội
Việt Nam, là sự vun trồng “nguyên khí quốc gia”, đặc biệt nâng cao chất
lượng nguồn lực con người của Việt Nam, làm cho nền học vấn nước nhà hưng
thịnh, đất nước phát triển bền vững.
Liên hệ
thực tiễn: (PHÚ YÊN THAM KHẢO)
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Khái quát về vị trí địa lý, dân số, cơ cấu kinh tế, về nguồn lao động tại
Tỉnh Phú Yên, diện tích
tư nhiên khoảng 5.045 km2 với Dân số
926.922 người; trung bình 185người/km2; mật độ, phân bố, 117%. Trình độ văn
hóa, phong tục tập quán.... Dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 71,5%,
Trong đó, lao động đang làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là
250.184 người, chiếm 46,7%; ngành công nghiệp và xây dựng là 105.446 người, chiếm
19,7%; ngành dịch vụ là 179.756 người, chiếm 33,6%.
Tỉnh Phú Yên số lượng CBCCVC toàn tỉnh hiện nay cơ bản đạt chuẩn về bằng
cấp chuyên môn nghiệp vụ. Toàn tỉnh có 24.730 CBCCVC; trong đó cấp tỉnh và huyện
21.336 người, cấp xã 2.463 người. 100% CBCC cấp xã đã qua đào tạo trình độ
chuyên môn, đạt chuẩn theo Thông tư 06/2012 của Bộ Nội vụ.
Công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các bậc học được đẩy mạnh. Toàn tỉnh hiện có 15.517 cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên (trong đó
các trường đại học, cao đẳng Trung ương đóng trên địa bàn có 451 người). Tỷ lệ giáo viên các cấp học đạt chuẩn và trên chuẩn về
trình độ chuyên môn là 99,48%; có 12% giáo
viên trung học phổ thông, 59,02% giảng viên cao đẳng, 74,03% giảng viên đại học
có trình độ sau đại học.
Qua thực hiện, số lượng, chất
lượng, cơ cấu nguồn nhân lực xã hội có những chuyển biến tích cực, đáp ứng tốt
hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trên địa
bàn tỉnh đã có 13.730 người được tuyển mới để đào tạo nghề; trong đó, đào tạo
dài hạn (trung cấp, cao đẳng) 3.224 người, đào tạo ngắn hạn 10.506 người. Tỉ lệ
lao động qua đào tạo đến nay đạt hơn 64%, tăng 9% so với đầu năm 2016 (chỉ tiêu
đến năm 2020 đạt 70%). Năm 2018 đã giải quyết việc làm mới cho 24.650 lao động,
vượt 6% kế hoạch năm, trong đó xuất khẩu lao động 435 người; tỉ lệ lao động qua
đào tạo nghề chiếm 47% trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
Ngoài những mặt đạt được, nguồn lực giáo dục đào tạo trên địa bàn tỉnh vẫn
còn nhiều hạn chế đó là:
Các chính sách đào tạo, thu hút, đãi ngộ tuy được quan tâm thực hiện nhưng kết
quả còn hạn chế, bất cập; một số ít đối tượng
được thu hút, bố trí công tác trái ngành đào tạo; việc giải quyết cho hưởng chế
độ, chính sách thu hút, đào tạo sau đại học trong một số trường hợp chưa phù hợp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là đào tạo sau đại học chưa chú trọng đúng mức các lĩnh vực, ngành mà địa
phương, đơn vị đang cần. Một bộ phận cán bộ, công
chức học những chuyên ngành không phù hợp với vị trí việc làm, yêu cầu nhiệm vụ,
có xu hướng chạy theo bằng cấp; tuy đạt chuẩn
trình độ nhưng năng lực hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Một số cơ sở
liên kết đào tạo sau đại học tại tỉnh chưa chú trọng đầu vào, chất lượng đào tạo
thấp...
Nhìn chung nguồn nhân lực
trong tỉnh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nhất là trên một số ngành, lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực xã hội còn nhiều
hạn chế, bất cập. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi còn
ít. Ngành nghề đào tạo chưa thật sự gắn kết
với nhu cầu thị trường lao động. Một bộ phận lực lượng lao động trẻ được đào
tạo chính quy chưa có việc làm hoặc làm những việc trái với ngành, nghề, lĩnh
vực đào tạo. Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực ở một số ngành, lĩnh vực,
tổ chức khá phổ biến…
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, khai thác tốt tiềm năng
con người góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.
Chúng ta cần tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
1.1-
Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp học đảm bảo đủ số
lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào
tạo.
1.2- Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở
đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội học tập; nâng cấp quy mô, ngành nghề đào tạo cho các trường
đại học, cao đẳng, trung tâm GDNN-GDTX thuộc tỉnh, chú trọng các nhóm
ngành, lĩnh vực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
1.3- Mở rộng liên kết với một
số trường đại học, học viện có uy tín trong nước và hợp tác quốc tế để nâng cao
chất lượng đào tạo; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo yêu cầu của thị trường lao động, gắn đào tạo với
giải quyết việc làm.
1.4- Kiểm tra, thanh tra chất lượng
giáo dục, đào tạo.
1.6- Công
tác quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
1.7- Triển
khai hiệu quả công tác hướng nghiệp cho học sinh, đảm bảo 100% học sinh được hướng
nghiệp nghề.
1.8- Gắn đào tạo nghề nghiệp với
giải quyết việc làm, nhất là đối với
nhóm đối tượng chuyển đổi nghề; liên kết với doanh nghiệp để đào tạo, tuyển dụng
sau khi tốt nghiệp.
0 Comments