Phân tích thực trạng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.

 

Phân tích thực trạng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Trong hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội còn biểu hiện gay gắt. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thì cần phải có những giải pháp thiết thực hơn nữa.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII chủ trương “ Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và đảm bảo định hướng XHCN, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xh.

Tiếp tục hoàn thiện các chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống ASXH đến mọi người dân; tại điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống...Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận các phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm ASXH cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”.

Như vậy, quan điểm nhất quán, xuyên suốt qua các thừi kỳ đại hội của Đảng luôn khẳng định gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Kết quả thực hiện thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển kinh tế ở Việt Nam được thể hiện trên các bình diện sau:

- Tình hình phát triển con người Việt Nam.

+Thứ nhất, chỉ số HDI của Việt Nam có nhiều cải thiện nhờ thành tựu của quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế.

+Thứ hai, thứ bậc về HDI của Việt Nam so với các nước và vùng lãnh thổ nói chung đã cao lên nhưng vẫn xếp ở vị trí trung bình thấp.

+Thứ ba, chỉ số tuổi thọ của Việt Nam tang nhanh, nhưng chỉ số tri thức và thu nhập còn thấp. Đến nay tuổi thọ bình quân của VN đạt 73,4 tuổi, cao hơn 69,3 tuổi của nhóm nước trung bình, cao hơn mức 72,6 tuổi của nhóm cao.

+Thứ tư, các chỉ số phát triển giới có nhiều cải thiện. Trong vòng 20 năm, VN được đánh giá là quốc gia có sự tiến bộ nhanh về bình đẳng giới. Gía trị và vị trí xếp hạng của chỉ số GDI đã tăng từ mức trung bình thấp lên mức trung bình cao, chỉ số GEM được xếp loại trung bình. Thứ hạng về chỉ số GEM và GII cao hơn một số nước trong khu vực.

- Tình hình giảm nghèo ở VN.

Trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế, Việt Nam đã rất chú trọng hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Tỷ lệ giảm nghèo từ khoảng 60% vào năm 1990 xuống còn 18,1% vào năm 2004, và kết thúc năm 2011, tỷ lệ nghèo cả nước giảm chỉ còn 14%. Tính bình quân trong giai đoạn từ năm 2010 - 2015, tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015. Năm 2008, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015. Số hộ nghèo giảm từ 29% năm 2002 xuống còn 9,5% năm 2011; chỉ số HDI tăng từ mức 0,683 năm 2000 lên mức 0,728 năm 2011, xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người của Việt Nam xếp 129 trên tổng số 182 nước. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao. Theo quyết định phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2012-2015, tổng kinh phí cho Chương trình là hơn 27.500 tỷ đồng. Đi kèm với đó, Chương trình 135 giai đoạn III, năm 2012 và 2013 thực hiện theo định mức và vốn đã được phân bổ; năm 2014 và 2015 tăng 1,5 lần so với định mức vốn năm 2013; các năm tiếp theo tăng thêm phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước.

- Tình hình bất bình đẳng xã hội ở VN.

+ Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở VN.

Mặc dù chúng ta luôn khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển, tuy nhiên, VN đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng của một nước CNH nên chúng ta đã xác định nhiệm vụ kinh tế là trọng tâm, nhấn mạnh nhiều đến các chính sách hướng tới tăng trưởng nhanh. Điều này đã ảnh hưởng khá lớn đến tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở nước ta thời gian qua. Thực trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở VN thời gian qua thể hiện ở:

(1) Các chỉ số bất bình đẳng đều có xu hướng gia tăng ở tất cả các tiêu chí, điều này phản ánh trong quá trình tăng trưởng, tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở VN gia tăng hơn, trong đó gia tăng trong khu vực thành thị và nông thôn ngày càng rõ.

(2) Dù các chỉ số bất bình đẳng ở VN có xu hướng gia tăng so với các tiêu chí quốc tế, song VN vẫn được coi là nước có mức độ bất bình đẳng thấp, trung bình. So với chuẩn quốc tế WB đưa ra thì VN có mức độ phân hóa giàu nghèo còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới và ở mức bất bình đẳng chấp nhận được.

+ Bất bình đẳng giới ở VN.

VN đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong bình đẳng giới (năm 2006, chúng ta đã có Luật Bình đẳng giới), được các tổ chức quốc tế đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua.

Chỉ số quyền năng giới (GEM) của VN được gia tăng, thể hiện bằng việc trao quyền cho nữ giới trong việc quyết định những vấn đề của kinh tế - xã hội, được thể hiện ở tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, nữ Bộ trưởng, nữ Thứ trưởng, nữ Vụ trưởng và tương đương; giảm giãn cách thu nhập giữa lao động nữ và nam...). Tuy nhiên nữ đại biểu tham gia Quốc hội nước ta hiện nay khá cao, khoảng 25%, nhưng tỷ lệ quản lý, lãnh đạo nữ còn thấp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn một số hạn chê như sau:

- Việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn chưa đồng bộ và triệt để. Kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng tính ổn định chưa cao; chưa bền vững; tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, ít dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao…

- Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư cho phát triển văn hóa ít hiệu quả. Tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng đáng lo ngại. Chưa khắc phục được sự yếu kém trong quản lý nhà nước về văn hóa...

- Số người nghèo, thất nghiệp còn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Khoảng cách chênh lệch giữa tầng lớp có thu nhập cao và tầng lớp có thu nhập thấp ngày càng gia tăng do cơ hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không được chia sẻ một cách đồng đều, mà lại có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống khá giả hơn...

- Khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân còn hạn chế. Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn bất cập. Tuổi thọ bình quân tuy tăng cao, nhưng chất lượng sống của người dân chưa cao...


Post a Comment

0 Comments