Trong thế giới
có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng
có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập,
tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ
đó? Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó, ta thấy có những quan
điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Trả lời câu hỏi
thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng
tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không
có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có
sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu
nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số
người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và mối liên hệ rất
đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển
hoá lẫn nhau.
Trái lại, những
người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quá
trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá
lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của
trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về
dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v;
Trả lời câu hỏi
thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ,
sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự
nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác của con người.
Những người
theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế
giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế
giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách
rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những
quan hệ xác định.
Các sự vật hiện
tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự
tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng
chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự
tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác.
Các
tính chất của mối liên hệ phổ biến
+ Tính khách
quan: Mối liên hệ của các sự vật là khách quan vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Ngay cả các sự vật vô tri vô giác hàng ngày cũng chịu sự tác động của các sự vật
hiện tượng khác. Con người cũng chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác
và các yếu tố trong chính bản thân.
Nhờ có mối liên
hệ mà có sự vận động, mà vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là 1 tất
yếu khách quan nên mối liên hệ cũng tồn tại khách quan.
Ví dụ: Sự phụ
thuộc của cơ thể sinh vật vào môi trường, khi môi trường thay đổi thì cơ thể
sinh vật cũng phải thay đổi để thích ứng với môi trường. Mối liên hệ đó không
phải do ai sáng tạo ra, mà là cái vốn có của thế giới vật chất
+ Tính phổ biến:
Bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật nào nằm
ngoài mối liên hệ. Nó tồn tại trong tất cả các mặt: tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó
thể hiện tính thống nhất vật chất thế giới.
Ví dụ: Trong tự
nhiên (mlh mặt trời và mặt trăng-> xem thêm định luật vạn vật hấp dẫn) trong
xã hội
(các hình thái
kinh tế xã hội: CXNT-CHNL-PK-TBCNCS); trong tư duy (LỚP 1-2-3-5 V.V..)
+ Tính đa dạng,
phong phú, nhiều vẻ:
Các sự vật hiện
tượng trong thế giới là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì vậy
khi nghiên cứu mối liên hệ giữa các sự vật cần phân loại mối liên hệ một cách cụ
thể.
Căn cứ vào tính
chất, phạm vi, trình độ, có thể có những cách phân loại sau: chung và riêng, cơ
bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và
thời gian. Sự phân loại này chỉ mang tính tương đối vì mối liên hệ chỉ là 1 bộ
phận, 1 mặt trong mối liên hệ phổ biến nói chung.
Ví dụ: các loái
cá, chim, thú đều có quan hệ với nước, nhưng cá quan hệ với nước khác với chim
và thú.
Cá sống thường
xuyên trong nước, không có nước thường xuyên thì cá không thể tồn tại được, nhưng
các loài chim và thú thì lại không sống trong nước thường xuyên được.
Ý
nghĩa phương pháp luận:
+ Quan điểm
toàn diện: là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu tất cả
các mặt, các yếu tố kể cả các mắt khâu trung gian, gián tiếp có liên quan đến sự
vật. Trong nhận thức nên tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa các cá bộ phận, các
yếu tố; giữa sự vật này với sự vật khác; giữa lý luận với nhu cầu thực tiễn…
+ Quan điểm lịch
sử - cụ thể: là quan điểm khi xem xét sự vật phải chú ý đúng mức hoàn cảnh lịch
sử cụ thể đã phát sinh ra vấn đề đó.
Ví dụ: biện hộ
cho việc ăn cướp là vì nghèo. Theo luật Hình sự thì đây chỉ là tình tiết gảim
nhẹ mà thôi-> vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
0 Comments