Quy
luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá, ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng
của quy luật giá trị
a) Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
+ Quy luật
giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản chất
của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng
hóa.
+ Nội dung
của quy luật giá trị là:
Sản xuất
và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao
động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải
làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động
xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay
lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi
với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán
hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
+ Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá
cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. ở đây,
giá trị như cái trục của giá cả.
b) Tác động
của quy luật giá trị
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật
giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng
hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu
tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những
người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do
đó, tư liệu sản xuất
và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất
càng được mở rộng.
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị
lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng
này hoặc
chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản
xuất và sức lao động ở
ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể
tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
+ Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu
sản xuất
và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng
nhu cầu của xã hội.
+ Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở
chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và
do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng
hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao
động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được
trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng
hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ
thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản
xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý,
thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
+ Sự cạnh
tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người
sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động
xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Phân hóa
những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người
sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao
động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ
thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản
xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.
Ngược lại,
những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức
hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua
lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực.
+ Do đó, đồng
thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện
pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều
kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Như vậy, quy luật giá trị có tác dụng tích cực,
vừa có tác dụng tiêu cực.
Ở
Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật
giá trị nên không khai thác được các nguồn lực, nền kinh tế kém phát triển rơi
vào khủng hoảng. Chúng ta chỉ thừa nhận nền kinh tế có 03 thành phần (quốc
doanh, tập thể và cá thể), 03 hình thức sở hữu (toàn dân, hợp
tác xã
và tư nhân).
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ chính lúc này là khôi phục,
ổn định xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tình hình đó
đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp
phù hợp với tình hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Sau khi giải
phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ khôi phục
kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật
chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống và tích luỹ, ... Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình
hình trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý
kinh tế có nhiều hạn chế, ...
Ở miền Bắc,
Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới
hai hình thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo ở đây là: sử
dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức
công tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp; cải tạo thủ công nghiệp
bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng
cách chuyển dần sang sản xuất.
Tại Đại hội IV,
Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào
những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. "Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, ... trong cả nước theo hướng
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành
những ngành kinh tế - kỹ thuật thống nhất và phát triển trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, việc
thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết điểm, đặc biệt là không gắn
kế hoạch với hoạch toán kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ thực
tế lao động sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ: "về tổ chức thực
hiện, khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy
bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế".
Trong kế hoạch
phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã có sự chuyển hướng tương
đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra nhiệm vụ tập
trung cao độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát
triển vượt bậc về nông nghiệp...
Trước sự yếu kém
của nền kinh tế đất nước, tại Đại hội V năm 1982, Đảng đã có nhiều chủ
trương mới cả trong chiến lược phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất.
Từ Đại hội III năm 1960, Đảng luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội V này, điều mới và quan trọng là Đảng đã xác định cụ thể nội dung và hình
thức công nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên. Đó là "tập trung phát triển
mạnh mẽ nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một
bước lên xã hội chủ nghĩa...".
Mặc dù thực tiễn đất nước sau
nhiều năm thực hiện chủ trương cải tạo theo hướng như trên là không hợp lý, không
đảm bảo việc phát triển sản xuất, nhưng những chủ trương được đề ra tại Đại hội
V về việc cải tạo các thành phần kinh tế về cơ bản vẫn
giống như tại Đại
hội IV.
Sau hơn một thập
kỷ nhận thấy rõ những hạn chế của cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, nhưng
phải tới Đại hội V Đảng mới có một chủ trương thực sự mang tính bước
ngoặt để xác lập một cơ chế quản lý mới về kinh tế thay cho cơ chế cũ.
Đảng chủ trương "đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ
cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng bảo
thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng
cao tính năng động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật"
Trong thời gian
thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, một số ngành và nhiều địa phương đã tiến
hành những cuộc thử nghiệm, tìm tòi về cách làm ăn mới này nhằm khai thác khả
năng tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông, phân phối,
đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Song, cho tới năm 1986 cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ.
Tuy những chủ
trương mới trong phân phối đã thể hiện sự quan tâm đúng mức đến lợi ích cá nhân
người lao động, đề cao ý thức trách nhiệm và kỷ luật của người lao động, nhưng
do cơ chế hành chính quan liêu bao cấp vẫn chưa thực sự được xóa bỏ, quá trình
cải tạo xã hội chủ nghĩa mắc nhiều sai lầm, ... dẫn đến tình hình phân phối ở
nước ta trong thời kỳ này vẫn chưa được cải thiện, thậm chí trầm trọng hơn trước,
'suốt 5 năm qua (1981-1985), lĩnh vực phân phối lưu thông luôn căng thẳng và rối
ren".
Đất nước ta sau
nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền kinh tế vẫn ở
trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm 1980 với những
khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; mất cân đối
lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Thực trạng kinh tế
- xã hội đó đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo
ra một bước ngoặt cho sự phát triển.
Sau đổi mới, chúng ta đã khẳng định, nền kinh tế nước
ta bao gồm, nhiều hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và tổ chức kinh doanh.
Từ chỗ không thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa
dưới chủ nghĩa xã hội (trước đổi mới), đến thừa nhận kinh tế hàng hóa có những
mặt tích cực cần vận dụng (Đại hội VI của Đảng), xác định “kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Đại hội IX của Đảng), và “nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản” (Đại hội XI của Đảng). Đây là một bước chuyển quan trọng về
nhận thức lý luận.
Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta cũng chỉ có 02 hai
hình thức phân phối cơ bản là phân phối theo lao động và phân phối theo phúc
lợi xã hội. Cho đến nay nhận thức về phân phối đã được định hình, các hình thức
phân phối được đa dạng hóa, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
được coi trọng.
Trong đó, công ty cổ phần với sở hữu hỗn hợp ngày càng
phát triển. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một
trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội VII
của Đảng đã đánh dấu bước tiến trong tư duy lý luận, chuyển từ quan niệm công
nghiệp hóa truyền thống sang quan niệm “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”.
Đại hội VIII đề ra mục tiêu và 6 quan điểm lớn chỉ đạo quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX tiếp tục xác định Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp.
Đại hội X và XI, Đảng xác định phải gắn công nghiệp
hóa với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức phù hợp với kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế; phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước;
kết hợp vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước; phát huy có hiệu quả
mọi nguồn lực, bên trong, bên ngoài và đặc biệt là nguồn lực của nhân dân. Đến
Đại hội XII, Đảng ta xác định “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Về cơ cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch theo
hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu lao
động đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động của các ngành, qua
đào tạo đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường gắn với
phát triển bền vững đã mang lại kết quả; ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là
công nghệ cao có tiến bộ, tạo tiền đề tiếp cận kinh tế tri thức.
Vận hành kinh tế hiệu quả hơn.
Tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được thể chế hoá thành pháp luật, cơ chế, chính
sách.
Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và chế độ
phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của kinh tế
thị trường phù hợp với điều kiện của đất nước. Các chủ thể kinh tế được tự do
kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh theo quy định của pháp luật, ngày càng phát
huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước từng bước phát huy vai trò chủ đạo;
hệ thống doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại, cổ phần hoá và đang giảm mạnh
về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu
mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng
nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm,
đóng góp ngày càng lớn vào GDP.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển, các doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất
khẩu.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường đang hình
thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên thông, gắn kết thị trường trong nước
với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ tăng về số
lượng, chủng loại, chất lượng; đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ
cấu, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, năng lực cạnh tranh.
Giá cả hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ đã vận hành
theo giá thị trường, được xác định theo quan hệ cung cầu. Thị trường lao động
đã được hình thành với nguồn cung lao động khá dồi dào trên phạm vi cả nước, bước
đầu đã tham gia thị trường quốc tế. Thị trường tài chính - tiền tệ phát triển
khá sôi động. Thị trường bất động sản phát triển mạnh, thị trường khoa học -
công nghệ đang hình thành và có bước phát triển nhất định.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo
nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới; đã tiến hành nhiều cải cách
thể chế theo hướng minh bạch, tự do hóa và có tính giải trình; gia nhập và tích
cực xây dựng AEC; từng bước hoàn thiện thị trường đầy đủ theo quy định của WTO;
chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cơ chế vận hành của Hiệp định TPP; tham gia có hiệu
quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ, nhất là trong
xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược về kinh tế và các FTA thế hệ mới
với những tiêu chuẩn cao.
Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều
nghị quyết, chủ trương về kinh tế; kịp thời điều chỉnh những chủ trương, giải
pháp phù hợp với sự thay đổi của tình hình, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh… Sự quản lý, điều
hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Việc sử
dụng các công cụ quản lý kinh tế, điều tiết nền kinh tế vĩ mô có tiến bộ. Phát
huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò làm chủ
về kinh tế của nhân dân.
Đại hội XI đã khẳng định, đất nước đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư
cho phát triển. Đại hội XII đã đưa ra nhận định quan trọng: “Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình
thành, phát triển”. Tuy nhiên, kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm
chuyển sang phát triển theo chiều sâu; thiếu bền vững do nhiều nguyên nhân cần được
làm rõ và tiếp tục khắc phục trong quá trình đổi mới trong thời gian tới với
chất lượng cao hơn.
Hiện nay nước ta đang hội nhập theo
nền kinh tế Thế giới với chính sách mở cửa hợp tác với các nước. Ngay từ
đầu, Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ ràng "Một nền kinh tế phát triển
theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
dưới sự quản lý của nhà nước". Trong quá trình phát triển nền kinh tế
nước ta chiụ tác động của nhiều nhân tố khách quan, một trong những nhân
tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị. Đó là một quy luật kinh tế căn
bản nó tác động vào nền kinh tế như một tất yếu khách quan, ở đâu có hàng
hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị còn tồn tại và phát sinh tác
dụng, thông qua đó ta thấy vai trò to lớn của quy luật giá trị nó duy trì
và mở rộng sản xuất của xí nghiệp và của xã hội. Việc phân phối thu nhập
quốc dân và theo đó đạt những cân đối cần thiết của nền kinh tế theo
hình thức giá trị, mặt khác nó còn kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao
động xã hội cần thiết, đồng thời tính toán kinh tế để bố trí lực lượng sản
xuất trong cả nước nhằm thực hiện tốt yêu cầu của quy luật phát triển kinh
tế có kế hoạch. Với những vai trò đó quy luật giá trị tác động mạnh trong
phân phối xã hội chủ nghĩa: Phân phối theo lao động thông qua giá cả, tiền
tệ... nó có tác động đẩy nhanh hoặc kìm hãm tốc độ thực hiện kế hoạch lưu
thông, hoàn thiện hoặc phá vỡ kế hoạch đó. Nhưng trong đó nhân tố giá
cả là yếu tố biểu hiện cơ bản của quy luật gía trị. Trong thực trạng nước
ta hiện nay nó đang biểu hiện nhiều mặt tích cực, kích thích lưu thông nâng cao
hiệu quả sản xuất, nhưng bên cạnh nó những biểu hiện nhiều mặt tiêu cực...
Hạn chế rất lớn đối với sự phát triển của nước ta hiện nay vì vậy cần phải
nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết thêm về những biểu
hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi rõ ràng cụ thể để
nước ta ngày càng phát triển đi lên.Với các đặc trưng của mô hình này như
đã nói ở trên, các quy luật kinh tế được phép huy tác dụng của nó trong đó
quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế.
Trong lĩnh vực sản xuất.
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế
thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa
thông qua thị trường, sản phẩm phải thành hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi
tuân thủ quy luật giá trị - sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ
sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
- Xét ở tầm vĩ mô: mỗi cá nhân khi
sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt
nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
- Xét ở tầm vĩ mô: mỗi doanh nghiệp
đều cố gắng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thì
gian lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì
trong xã sản xuất giá trị cá biệt của từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc
thấp hơn giá trị xã hộ, do đó quy luật giá trị dùng làm cơ sở cho việc
thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trogn sản xuất kinh doanh. Các cấp quản
lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cớ sở, khi
đặt kế hoạch hay thực hiện hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan
hệ cung cầu, để định lượng, kết cấu hàng hóa, … Nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của
quy luật kinh tế cơ bản của CNXH và quy luật phát triển có kế hoạch và cân
đối nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên quy luật giá trị không phải không có
ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp vào
sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu
thụ dưới hình thức hàng hóa và chịu sản xuất sự tác động của quy luật giá
trị. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá
trị có những điểm không giống nhau. Vì thế các xí nghiệp của chúng
ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị. Do vậy, nhà nước
đua ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Mỗi
doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động.
Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó: loại
bỉ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân, ngành, doanh nghiệp phát huy
tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà trong đó đội ngũ lao động có táy nghề chuyên môn ngày càng cao, công
cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hóa, chuyên môn
hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vận dụng đúng
đắn của nhà nước.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh
tế.
Việc chuyển từ chế độ tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ
cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động đáng bởi các chi tiêu sản
xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp
với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định
tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
Mặt khác, cùng với xu hướng công khai
tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc
đẩy tiến trình gia nhập AFTA. WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải
nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá
trình hội nhập quốc tế hội nhập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là
nói đến sức canh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước và các
nhân nước ngoài.
Tạo nên sự năng động của nền kinh tế
thị trường việt nam.
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ
quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi
người sẽ tìm cho mình một con đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh tạo nên sự sản xuấ hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác
nhau, luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng
động sẽ làm cho sản phẩm hàng hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều chất lượng. Bởi
vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn
thiện hơn, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Sự năng động
thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Vì, việc phát triển nhiều
thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần
kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hóa
thu lợi nhuận hay nâng cao trình độ sản xuất một ngành, một lĩnh vực nhất
định.
Thúc đẩy quá trình hội nhập
quốc. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận, sự đầu tư trong
nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là
thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi
thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác
nhau nên có nước cần vốn thì nước thừa vốn. Do tốc độ phát triển khác nhau
nên có nước phát triển có nước lạc hậu; do sự phân bố tài nguyên khác nhau
nên mỗi nước lại có điều kiện sản xuất khác nhau và tạo ra một lợi thế so
sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hóa, hiệu tác sản
xuất để có chi phí sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương
trường. Ngoài ra, quy luật giá trị tác động có tác dụng giáo dục những cán
bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất hợp lý, tôn trọng kỉ luật, học hỏi
tiềm lực của sản xuất, tính toán chính xác, nắm bắt tình hình thực hiện
của sản xuất, biết tìm cách lực lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong sản
xuất. Tuy nhiên vẫn còn các cán bộ lãnh đạo, các nhà chuyên môn về công
tác kế hoạch đều hiểu không thấu đáo tác dụng của quy luật giá trị, không
nghiên cứu và không biết chú ý đến tác dụng đó trong khi tính toán. Là
nguyên nhân vì sao chính sách nước ta còn hay mơ hồ.
Trong lĩnh vực lưu thông.
Phân phối và lưu thông trong xã hội
chủ nghĩa có sự tác động khách quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng
quy luật lưu thông, phân phối được thể hiện ở những mặt sau.
Hình thành giá cả.
Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự
chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan của nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những
mục đích nhất định, đã phải tính đến những nhiệm vụ kinh tế, chính trị
trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Hình thành giá cả là hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung
nhất. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác
định giá cả phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị cơ sở, phản ánh
đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả
phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lý, tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng
thời bảo đảm một mức lãi thích đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên
tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí
nghiệp quốc doanh nghiệp
với nhau, cũng như nhà nước với nông dân.
với nhau, cũng như nhà nước với nông dân.
Nguồn hàng lưu thông.
Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp
hàng hóa cho thị trường thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt
hàng có quan hệ lớn đến quốc tế dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì nhà
nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cầu theo
định lượng, theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả. Chính thông qua hệ
thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một
hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, gái bán hạ sẽ thúc
đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại. Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào
việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh gái trị để kích thích cải tiến kĩ
thuật tăng cường quản lí. Không những thế nhà nước ta còn chủ động tách
giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kì nhất định, lợi
dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sả xuất và
lưu thông, điều chỉnh cung cầu cà phân phố. Giá cả được coi là một công cụ
kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội. Ví dụ như
là giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá trị để khuyến
khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kĩ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên sự
điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích
cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều
kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước do giá cả hợp lý hơn. Kinh tế
thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo đuổi hiệu
quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu quả
kinh tế thị trường; một khi mở rộng, vận dụng vào lĩnh vực đời sống xã
hội và quan hệ con người, không tránh khỏi sản sinh những quan hệ khác
nhau gắn bó đạo đức con người đó chuẩn mực giá trị coi trọng tình nghĩa, xem
thường lợi ích hay coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa. “do vậy, ở
nước ta, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải
chú ý sự chuyển đổi quan niệm sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền
thống và hiện đại. thể hiện rõ nhất ở nước ta hiện nay là nạn nhân hàng
giả, trốn thuế, buôn lậu…..”
Tác động của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Áp dụng Quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy được những thế mạnh của nó khi tác động vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, đó là:
Áp dụng Quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy được những thế mạnh của nó khi tác động vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, đó là:
Quy luật giá trị góp phần điều tiết
sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Trong sản xuất, nếu như một mặt hàng
nào đó có giả cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy và lợi cao, những người sản
xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao
động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hoá khác cũng có thể chuyển sang
sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này
tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng. Còn nếu như một mặt hàng nào
đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản
xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt
hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi ở
ngành khác lại có thể tăng lên. Trường hợp còn
lại, mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thỡ người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này. Như vậy, quy luật giá trị đó tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tốc động điều tiết lưu thông hàng hoá của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, và do đó, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
lại, mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thỡ người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này. Như vậy, quy luật giá trị đó tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tốc động điều tiết lưu thông hàng hoá của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, và do đó, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
0 Comments