Sự gắn kết giữa
nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một
phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức
và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn
phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý... luôn là chìa
khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định.
Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh
nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với
một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Thực tiễn là một trong những phạm trù
nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết
học Mác – Lênin nói chung.
Thực tiễn là
toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực
tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những
hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay
nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất "cảm tính" của con
người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc
trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và
được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng
tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xa hội loài người.
Hoạt động thực
tiễn có ba dạng cơ bản, đó là:
+ Hoạt
động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn,
có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là
hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất
trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có
tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động
của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ
xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một
hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con
người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Lý luận là sự tổng kết
kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội
tích trữ lại trong quá trình lịch sử.
Xét về bản chất:
lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng khái quát, đúc kết
từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy
luật... phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Lý luận là sản
phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan hệ với
thực tiễn.
Mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn:
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan
hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định.
·
Vai trò quyết định
của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm
tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không
có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính
phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp.
Sự phản ánh vượt
trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai đoạn lịch
sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy
mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo
Chỉ có thông
qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện thực.
Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới
phát huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực.
Đánh giá vai
trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: "Thực tiễn cao hơn nhận thức,
lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực
trực tiếp".
·
Vai trò tác động
trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận có thể
thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược
lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học,
phản động, lạc hậu.
Lý luận khoa học
sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi
sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành
công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn
về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người
xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp
váp.
Lý luận khoa học
thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt
động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết
kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát.
Lý luận khoa học
dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó
chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá
giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng
cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu
quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương
lai là chức năng quan trọng của lý luận.
Lý luận cách mạng
có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: "Không
có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng". Mác
thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng
vật chất".
Vai trò của lý
luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại
ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức
tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học
thì không thể không có tư duy lý luận.
Sự lạc hậu, giáo
điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời
gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã
hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
trước đây.
·
Nguyên lý thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm
mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm
nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho
sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và
phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử
xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các
lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội,
được kiểm nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo
thế giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và
triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của
mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của
mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản
ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận
mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống
nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hoặc "Có
kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ".
4- Ý nghĩa phương pháp luận:
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh
kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn
trong nhận thức và cuộc sống.
Trước hết, cần
phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt
động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn
để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn,
học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực
tiễn.
Đồng thời cần
phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận
yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho
toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ
tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý
luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những
căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
Nếu coi thường
thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
+
Bệnh
kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động
chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu
học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát
thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ
biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với
những người trình độ văn hoá kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh
nghiệm một cách thiếu sáng tạo.
+ Bệnh
giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ
dựa vào lý luận, coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy và
hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức
là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh
lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu
sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không
chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động
lý luận và thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có
nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Để khắc phục
hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường
xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải coi trọng
lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học
tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải
quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi
đặt vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc
lòng từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để
kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận suông. Mà mục
đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm
trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân
dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi vận dụng thì bổ
sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý luận mới sinh ra từ trong thực
tiễn.
5- Sự vận dụng của Đảng ta:
·
Trước đổi mới:
Do chưa nhận thức
đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn
lý luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ
qua những bước đi cần thiết.
Một trong những
sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ
căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa
Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn,
CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt
chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ
máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải
xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội
trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà
không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta. Đảng ta
cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách
phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực
là phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng
sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền
kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất
không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta
thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả
năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng
lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật
khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường...),
quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế
độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ quá độ.
Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch
pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối...
làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng
trong thời kỳ này chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi
nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư
bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh
tế tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị
trường, sản xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào
luận điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ
nghĩa cộng sản là xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu
sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ và do đó sự thống trị của hàng
hóa đối với những người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm
của CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ
nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản:
giai đoạn chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã
nhấn mạnh: đó là một xã hội vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh
thần nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ
nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay
lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần.
Hậu quả của những sai lầm xuất phát
sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính
sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế xã hội: Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của
cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa
có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng
mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng
lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát
huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất
cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị
tích nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong
đời sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự
điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước
đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra
cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển
mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong
đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải
phóng các nguồn lực phát triển của đất nước.
Đại hội IV chưa
xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm
1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ
các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra
những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không
coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây
dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải
quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu.
Đại hội V đã cụ
thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục
tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực
hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc
phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ
trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ
thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu
tư, chính sách đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công
nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công
trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về
tiền vốn và vật tư.
Trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh
tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế
sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định
rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương chính sách chỉ đạo công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành
phần kinh tế tư bản tư nhân, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc
doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý đến những đặc điểm.
tính chất của từng ngành, từng nghề, không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật,
trình độ quản lý và năng lực cán bộ, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác
xã quy mô lớn. Nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà
không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối.
Cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp trong phát triển kinh tế còn nặng nề, chưa bị xóa bỏ.
Chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản
lý nhưng lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm.
Đại hội VI đã
thẳng thắn thừa nhận "những sai lầm
và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân". Xét đến cùng, những sai lầm trên đây của Đảng
ta xuất phát từ việc chưa quán triệt đầy đủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
với thực tiễn.
·
Thời kỳ đổi mới:
Nhận thức được
những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi
mới toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có mọi phương
hướng đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn như Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã
xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Đại hội VI đã
rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong đó bài học thứ hai là "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều
kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Thực tế đất nước sau 10
năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đất
nước ta từ mức thiếu lương thực, phải nhập khẩu lương thực hơn 45 vạn tấn vào
năm 1988, nhờ đổi mới phát triển nông nghiệp mà từ năm 1989 trở đi đã có đủ
lương thực tiêu dùng trong nước và có một phần xuất khẩu mỗi năm 1 – 1, 5 triệu
tấn gạo. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thanh phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước từng bước được hình thành.
Đại Hội Đảng lần IX cũng đã nhấn
mạnh “Tiến
hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam, tham khảo
kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào…”..
Những nhận định
trên của Đảng chính là sự tiếp thu và vận dụng đúng đắn quan điểm của Hồ Chí
Minh về cách mạng XHCN phải lấy thực tế
làm điểm xuất phát để xác định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ của cách mạng, kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để xác định chủ trương, chính sách.
Theo quan điểm của người, việc học tập và vận dụng kinh nghiệm tốt, những mô
hình hiệu quả trong công cuộc xây dựng đất nước của các nước XHCN trên thế giới
giúp chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai lầm của người đi trước. Nói cách
khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về CNXH, con đường và các giải pháp
xây dựng CNXH ở mỗi nước có thể là kinh nghiệm tham khảo chứ không thể áp dụng
máy móc, rập khuôn. Xuất phát từ thực tế nước ta và quy luật về quan hệ sản xuất
- lực lượng sản xuất, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH,
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau là
tất yếu, do đó cần phải duy trì nhiều hình thức quản lý, phân phối khác nhau.
Theo Người, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ mọi thành tựu
văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; những thành
tựu đó cần được tiếp thu, khai thác vì sự thành công của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Cũng phải thấy
rằng bước đầu công cuộc đổi mới, trên thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan
trọng. Những biến đổi ấy vừa có ảnh hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những bài
học kinh nghiệm thực tiễn mà Việt Nam có thể tham khảo với các mức độ khác nhau
để lựa chọn con đường phát triển.
Xuất phát từ đặc
điểm đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991), Đảng đã nêu: chúng ta
phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất
và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước
đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: do nhân dân lao động
làm chủ, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm
theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết
và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng.
Đại hội IX tiếp
tục khẳng định "Đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình sẵn có
nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ
trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt,
sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm
chuyển biến tình hình".
Trên cơ sở vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết kinh nghiệm
thành công và cả kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta và các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm
đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, gồm:
Một là, "xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với
mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước
theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết
lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng
về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".
Năm là, "thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới".
Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách
mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn
trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta"
Hiện nay, công
cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh
chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, trong
đó có những vấn đề liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH.
Không ít vấn đề về nhận thức lý luận còn chưa đủ rõ; không ít vấn đề về thực
tiễn, nhất là những vấn đề bức xúc nảy sinh từ cuộc sống, chưa được giải quyết
kịp thời và tốt nhất.
Trên cơ sở đó
Văn kiện Đại hội IX tiếp tục chỉ rõ: “Đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và
kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa,
bổ sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư
tưởng sai trái”. Chỉ có như vậy con
đường đến CNXH của chúng ta mới giảm bớt gập ghềnh, quanh co.
Thực tiễn 20
năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: đất nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi toàn diện và cơ bản, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và khối đại đòan kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường, giữ vững an ninh, quốc phòng, vị thế nước ta trên
trường quốc tế không ngừng nâng cao. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc
đổi mới đó, có thể nói rằng mỗi Đại hội Đảng là một dịp để Đảng và Nhà nước ta
tổng kết thực tiễn, nâng tầm lý luận, làm căn cứ cho việc hoạch định đường lối,
chính sách phù hợp cho từng giai đoạn. Những thành tựu tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách của Đảng; góp phần vào những thành công rất to lớn của Đảng và nhân dân ta
trong công cuộc đổi mới, tạo thế và lực mới cho đất nước.
Đại hội X tiếp
tục khẳng định: "đổi mới không phải
xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng", "phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến
hoạt động thực tiễn", "đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực
tiễn, nhạy bén với cái mới".
Lý luận đổi mới
ở nước ta ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tác động trở lại thực tiễn.
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở khoa
học cho việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng, cho việc quản lý của nhà
nước. Đại hội X đã chỉ ra: "Thường
xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, dự báo tình hình và xu thế phát
triển của thế giới, khu vực và trong nước, cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước".
Tuy nhiên công
tác lý luận ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Lý luận vẫn còn tình trạng
tách rời thực tiễn, chưa sâu sắc và nhạy cảm để phát hiện những mâu thuẫn và
tình huống có vấn đề trong quá trình đổi mới. Chính vì vậy, chưa bao giờ lý luận
lại cần thiết và có tầm quan trọng như hiện nay. Đại hội X đã đưa ra những
phương hướng, giải pháp để phát triển lý luận, đó là: "phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn
làm sáng tỏ những vấn đề mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối",
"chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá,
sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng
và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận".
Thực trạng hiện
nay cho thấy không ít cán bộ đảng viên ta chưa thực sự quán triệt quan điểm thực
tiễn, không bám sát thực tiễn, không thường xuyên tổng kết thực tiễn, tổ chức
hoạt động thực tiễn cho nên việc triển khai lý luận chưa tốt, lý luận chưa được
bổ sung kịp thời để theo kịp với thực tiễn. Đại hội X đã chỉ ra biện pháp:
"Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ
sung phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra".
Tóm lại, từ
những phân tích trên cho thấy rõ phải coi trọng lý luận nhưng không được cường
điệu vai trò của lý luận coi thường thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt
động cách mạng. Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bật của
xã hội loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận phải
gắn với thực tiễn, phải được kiểm tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông
qua việc tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta khi đất nước
nảy sinh những vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã đứng trên
quan điểm, phương pháp luận của CN Mác - Lênin và TT HCM để xem xét. Hàng lọat
các vấn đề từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... không thể giải quyết chỉ bằng
lý luận mà đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện thông qua thực tiễn, tổng kết thực tiễn,
chỉ có như vậy công cuộc xây dựng CNXH của ta mới giảm bớt chông gai, gập ghềnh.
0 Comments