Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta?


Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta?

Sau hơn 20 mươi năm đổi mới và xây dựng nền kinh tế đất nước, vấn đề thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiếp tục bàn luận.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông và Trung Âu đồng nghĩa với sự sụp đổ của mô hình CNXH dựa trên nền tảng chế độ sở hữu - công hữu đơn nhất và cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Khi mô hình hiện thực sụp đổ, sự hoài nghi cơ sở lý luận chính thống của nó, chủ nghĩa Mác - Lênin, là không thể tránh khỏi. Sự hoài nghi càng rõ khi thực tiễn chọn một cách thức dường như trái ngược, đã từng bị phủ nhận để thực thi CNXH: nền kinh tế thị trường. Đây là lý do nảy sinh một khoảng trống lý luận trong việc giải thích xu hướng thực tiễn trái với tư duy thông thường. Như vậy nghĩa là muốn phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng của Đảng và Nhà nước đã đề ra, cần xây dựng được một cơ sở lý luận vững vàng, dựa trên nên tảng thực tiễn; điều này đòi hỏi chúng ta thường xuyên nghiên cứu các vấn đề về nền kinh tế thị trường cả trên cở sở lý luận và thực tế áp dụng tại nước ta.
Việt Nam xếp thứ 135 thế giới về Tự do kinh tế, cùng nhóm với các nước như Lào và Bangladesh. Đó là kết luận mà tổ chức Heritage Foundation và Tạp chí Wall Street Journal đưa ra trong ấn phẩm mới xuất bản “Chỉ số Tự Do Kinh Tế Năm 2008”, có tên tiếng Anh là: “2008 Index Economic Freedom”. Điều này cũng là một nguyên nhân để nhiều người đặt ra một câu hỏi: Liệu nền kinh tế Việt Nam có thực sự là nền kinh tế thị trường, hay nền kinh tế nước ta có thực sự đang phát triển theo như những quan điển mà Đảng và Nhà nước ta đã nêu ra: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tế trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã đạt được những thành công đáng kể trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề càn xem xét trong việc thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.   CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết khách quan phát triển kỉnh tế thị trường định hướng xã hội  chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển văn minh của nhân loại. Kinh tế thị trường là chỉ phương thức vận hành nền kinh tế và phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực của xã hội và điều tiết các mối quan hệ giữa mọi người.
Cơ chế thị trường từ trước đến nay nó chủ yếu tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa những ưu thế mà kinh tế thị trường mang lại để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận của các nhà tư bản. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã phát triển tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh những mặt tích cực của nó như: thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ, tạo cơ hội cạnh tranh tự do trên thị trường..., thì nó cũng tồn tại những khuyết tật từ bản chất bên trong của nó. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo.
C.Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, tốt đẹp hơn. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện nay đang có xu hướng tự phủ định và chuyển sang một giai đoạn mới theo xu hướng xã hội hoá. Đây cũng là quy luật tất yếu khách quan, quy luật phát triển của xã hội. Nước ta muốn bắt kịp với xu hướng phát triển của thời đạì thì dứt khoát không thể theo và càng không thể chỉ dừng lại ở việc phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Cần lưu ý tới những mối liên hệ chủ yếu giữa Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường. Những điểm đặc trưng sau:
-  Mục đích của chủ nghĩa xã hội là phát triển, sự phát triển cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Kinh tế thị trường là phương thức hiệu quả để có thể đạt được sự phát triển. Như vậy, chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường là đồng hướng trong việc tạo nên sự phát triển của xã hội.
-  Nói phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tức là chúng ta thừa nhận cơ sở kinh tế của quá trình chuyển biến xã hội lên xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận như thế tức là để định hướng đất nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa thì phải tạo mọi điều kiện để kinh tế thị trường phát huy hiệu quả cao nhất. Phát triển mạnh kinh tế thị trường trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là sự định hướng xã hội chủ nghĩa một cách thiết thực và hiệu quả nhất.
Tuy vậy cũng phải xác định được rằng: Định hướng xã hội chủ nghĩa có những nội dung vượt ra ngoài thị trường. Một số đặc trưng phát triển xã hội chủ nghĩa vượt ra bên ngoài, lên cao hơn những kết quả do thị trường mang lại, kể cả những kết quả tích cực. Chúng không hoàn toàn và không tự động tương hợp với thị trường. Công bằng và bình đẳng trong phát triển, quyền của người dân được đề cao trong xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình xây dựng CNXH, tức là quá trình phát triển theo định hướng XHCN, ngoài việc phát triển kinh tế thị trường và trên cơ sở thị trường, còn phải nỗ lực khắc phục những thất bại của thị trường hay những khuyết tật của thị trường và đạt tới một số mục tiêu mà tự bản thân thị trường không định hướng tới và không thể đạt được như phúc lợi xã hội, phục vụ người nghèo, V.V., nghĩa là phát triển phải bảo đảm phát triển bền vững.
Từ các lập luận đó, có thể tóm tắt khẳng định mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đơn giản và rõ ràng đó là: hiệu quả kinh tế, dân chủ và công bằng.
Song song với việc phát triển hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước phương Tây; mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ra đời nhằm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội phát triển hơn, công bằng hơn, tốt đẹp hơn; Và thực tế trong thời gian tồn tại khoảng gàn 70 năm, nền kinh tế chủ nghĩa xã hội được phát triển theo mô hình kế hoạch hoá tập trung đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên do quá nóng vội trong cách thực hiện, quá nóng vội trong việc loại bỏ kinh tế hàng hoá và áp dụng vội vàng nền kinh tế phi thị trường, bình quân chủ nghĩa, không năng động, kịp thời thay đổi khi càn thiết đã làm cho mô hình với nhiều ý tường tốt đẹp đã không thành công.
Như vậy có nghĩa là nếu chúng ta áp dụng đơn thuần mô hình kinh tế thị trường như ở các nước tư bản chủ nghĩa hoặc xa rời thực tiễn khi áp dụng mô hình kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu thì có thể đất nước lại đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc lại đi theo vết xe đổ của mô hình kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông và Tây Âu đã gặp phải.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đày đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại hội VI (tháng 12/1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan điểm mới về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong đó thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phàn với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội;
Đen Đại hội vm của Đảng đưa ra một kết luận mới hết sức quan trọng, đó là: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại; nó tồn tại khách quan, càn thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhưng lúc đó mới nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, chứ chưa dùng đến khái niệm “kinh tế thị trường”.
Phát huy những kết quả đổi mới đã đạt được, qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết lý luận và thực tiễn; Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối chiến lược nhất quán.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, càn có sự thống nhất về nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các chủ trương giải pháp giữa các cấp các ngành, đặc biệt là phải làm cho nhân dân nhận thức được sự đúng đắn trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn như vậy càn đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và đưa các vấn đề lý luận gàn gũi và phục tốt cho thực tiễn hơn.
Như vậy có thể thấy rằng, trong quá trình đổi mới kinh tế đất nước, có một xu hướng tổng quát nhất đó là chuyển sang cơ chế thị trường và phát triển kinh tế thị trường , và điều này được thực khẳng định trên cả lý luận và thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiận và đặc điểm cụ thể của Việt Nam; là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;
động lực chung để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc; đồng thời coi trọng khuyến khích cả vật chất và tinh thần, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những yếu tố, phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường được sử dụng, phát triển để xây dựng chủ nghĩa xã hội; tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế ngày càng được hình thành rõ nét hơn trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể khái quát lại như sau:
Thứ nhất, đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vai trò làm chủ xã hội của nhân dân và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây dựng; là sự nắm bắt và tự giác vận dụng sáng tạo xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của nền văn minh nhân loại, sử dụng và phát huy cao độ vai trò tích cực của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát trong kinh tế thị trường, nhằm thực hiện có kết quả mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để Việt Nam có thể hội nhập với thế giới, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại ho á, sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm giải phóng triệt để và thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất, cải thiện nhanh đời sống của nhân dân, tạo ra sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội, tạo động lực thu hút mạnh mọi nguồn lực trong và ngoài nước đàu tư cho phát triển, và giữ vững ổn định chính trị - xã hội; lấy phát triển lực lượng sản xuất làm động lực để không ngừng hoàn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất.
Thực hiện xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Các thành phàn kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển lâu dài; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phàn kinh tế cùng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phàn định hướng xã hội chủ nghĩa, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội; nguồn lực của các nhà đàu tư nước ngoài được thu hút mạnh; kinh tế cổ phàn ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất và đàu tư.
Thứ ba, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; thực hiện công bằng trong phân phối để tạo động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội; trong đó việc hình thành và phát triển một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có sức cạnh tranh cao, có uy tín lớn là một nhiệm vụ chiến lược.
Mọi công dân có quyền tự do đàu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu hợp pháp; có quyền bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin.
Nhà nước định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu càu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự hình thành, phát triển của các thị trường hàng hoá và dịch vụ, tài chính (vốn và tiền tệ), bất động sản, sức lao động, khoa học và công nghệ..., Nhà nước tạo môi trường đàu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho phát triển theo cơ chế thị trường, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương, các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường; hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tàng kinh tế, xã hội quan trọng; đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật; tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế, sử dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường trong nước khi càn thiết, không trái với các cam kết khi hội nhập. Nhà nước thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển không phân biệt hình thức sở hữu, đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối với một số mục tiêu (như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, khắc phục những rủi ro), một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không phân biệt thành phàn kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta. Nhà nước quan tâm bồi dưỡng, đào tạo và biểu dương các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt.
Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, hình thành một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên chế độ cổ phàn. Doanh nghiệp nhà nước không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả; chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phàn nhiều chủ sở hữu; phát huy vai trò nòng cốt, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tàng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, một số lĩnh vực công ích; làm nòng cốt trong các tập đoàn kinh tế lớn có tàm cỡ khu vực và quốc tế. Các loại hình kinh tế tập thể, nhất là các hợp tác xã được đổi mới và phát triển mạnh. Kinh tế tư nhân được khuyến khích và phát triển mạnh không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đàu tư nước ngoài vào các ngành nghề, các lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới thành nguồn lực tổng hợp để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước nhanh và bền vững; trong đó nội lực là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, các nguồn lực bên ngoài có vai trò rất quan trọng giúp cho phát huy nội lực mạnh hơn.
Nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập và hợp tác quốc tế dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc trong hội nhập kinh tế quốc tế, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm lợi ích cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới.
3. THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tìm hiểu những vấn đề hiện đang cản trở sự phát triển của đất nước. Hầu hết tất cả các chính sách kinh tế, xã hội, chính tri đều đã được nghiên cứu kỹ càng để tìm ra những hướng giải quyết hiệu quả. Và kết quả là chúng ta đã đạt được những thành công ngoạn mục trong việc phát triển đất nước, kinh tế có tốc độ phát triển cao, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, tình hình chính trị khá ổn định.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều vấn đề thực hiện một cách dở dang, kém hiệu quả. Kết quả phát triển thu được nhiều nhưng tổn thất cũng rất lớn; chất lượng tăng trưởng và phát triển thấp, ví dụ như nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng đi liền với nó là lạm phát năm 2007 ở mức 12%. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế còn yếu kém và chậm được cải thiện;...
Có thể thấy đây là hậu quả của cách làm nửa vời, ra thật nhiều quyết định, muốn đồng thời đạt được thật nhiều mục tiêu, trong khi thiếu điều kiện thực thi bởi cơ sở hạ tàng của nước ta hiện nay còn yếu kém so với sự phát triển như vũ bão của thế giới, không tính kỹ đến điều kiện bảo đảm thực thi, nhất là điều kiện về chất lương bộ máy quản lý và con người khi ra quyết định và chọn mục tiêu, vốn ít nhưng bày ra nhiều công trình, mỗi công trình lại rất tốn vốn. Kết cục là dở dang hàu như ở tất cả những việc đặt ra để làm và hậu quả để lại rất lớn. Không biết bao nhiêu công trình, các toà nhà, các dự án được xây dựng xong phàn khung rồi lại để đó chờ vốn cấp xuống. Đầu tư nhiều nhưng dàn trải và không hiệu quả. Như vậy rõ ràng nền kinh tế thị trường không vận hành tốt, hiệu quả thấp nên định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một điều vô cùng khó thực hiện.
Nguyên nhân vì đâu dẫn đến tình trạng trên. Đó là do chưa hiểu được bản chất của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngay trong các cấp lãnh đạo, những người nắm quyền quản lý đất nước, những người đưa ra những quyết định mang tính định hướng cho sự phát triển của đất nước vẫn còn có những người chưa thực sự hiểu được bản chất mối quan hệ giữa nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế sau hơn 20 năm đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị trường, chúng ta vẫn chưa thể khẳng định nền kinh tế nước ta đã là nền kinh tế thị trường hoàn toàn, mà nó mới chỉ là giai đoạn đàu, giai đoạn sơ khai của kinh tế thị trường, ở đó các yếu tố để kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả còn yếu như cơ sở hạ tàng còn yếu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao.. .tất cả những điều đó là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của kinh tế đất nước.
về vấn đề xây dựng hệ thống thể chế thị trường, Đại hội IX của Đảng đề ra mục tiêu hình thành và phát triển đồng bộ hệ thống thể chế thị trường với tư cách là sự đột phá chiến lược. Đây là một định hướng chiến lược đúng, đáp ứng đòi hỏi đang ngày càng gay gắt của thực tế.
Phát biểu khai mạc Hội nghị làn thứ sáu Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá X, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Chúng ta phải vừa làm, vừa đúc kết thực tiễn, vấn đề đặt ra là phải tạo được sự thống nhất nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các chủ trương, giải pháp để đi đến sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn, từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay có thể nhận thấy rằng bước tiến theo hướng này thực sự còn chậm. Hệ thống thể chế thị trường hình thành và phát triển lệch pha và lệch nhịp nhau. Bằng chứng: thị trường bậc cao nhất (thị trường chứng khoán) ra đời trong khi thị trường các yếu tố đàu vào cơ bản nhất (thị trường đất đai, thị trường lao động) hãy còn chưa được thừa nhận chính thức;... Kết cục là thị trường vận hành chưa đạt được hiệu quả cao, thiếu ổn định. Nguyên nhân tạo nên sự phát triển chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ trong thể chế kinh tế thị trường tựu chung ở hai nguyên nhân lớn là: Chưa nhận thức đúng và đày đủ bản chất, nguyên tắc và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, do vậy, chưa hiểu rõ thực chất và vai trò của tính đồng bộ hệ thống và trật tự bước đi của quá trình hình thành các thể chế kinh tế thị trường. Bên cạnh đó là thái độ hoài nghi thị trường vẫn còn nặng, cách tiếp cận đến kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn bị chi phối quá mạnh bởi thiên kiến tư tưởng. Không vượt qua được những điểm yếu căn bản đó trong tư duy, trong nhận thức thì quá trình chuyển sang thị trường và phát triển kinh tế thị trường chắc chắn còn gặp nhiều ách tắc.
về vấn đề sở hữu, vấn đề mấu chốt của một chế độ kinh tế. Việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phàn rõ ràng là một bước tiến căn bản. Song không đủ và đang ngày càng trở nên rất không đủ để có thể giải thích đúng thực tiễn kinh tế Việt Nam hiện nay và tạo thành cơ sở lý luận cho sự phát triển của nền kinh tế hiện thực. Nếu chỉ thừa nhận thôi không đủ, vấn đề quan trọng là thực hiện sự bình đẳng, dân chủ đối với các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội. Sự kỳ thị thực tiễn đối với các thành phàn còn rất nặng, thể hiện ở môi trường kinh doanh, ở điều kiện tiếp cận đến các nguồn lực và điều kiện phát triển. Mặc dù đã có những chính sách hết sức cởi mở để thu hút các nguồn vốn đàu tư nước ngoài, khích lệ các cá nhân tham gia vào thị trường nhưng có thể rất dễ dàng nhận thấy vẫn còn tòn tại sự phân biệt giữa các doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác nhau. Dành đặc ân, đặc quyền cho các tổng công ty, các tập đoàn của Nhà nước. Cơ chế cạnh tranh bình đẳng đó là nguyên lý tối cao của kinh tế thị trường, nhưng thực tế chưa thực sự được tôn trọng và phát triển trong nền kinh tế nước ta.
Mong muốn phát triển nền kinh tế thị trường - chế độ sở hữu tư nhân giữ vai trò then chốt - nhưng đề cao vai trò then chốt của kinh tế Nhà nước một cách quá mức. Mong muốn xây dựng một nền kinh tế thị trường phát triển nhưng cũng muốn có được hệ thống sở hữu chuẩn xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác là quá đề cao sự điều tiết kinh tế của Nhà nước dựa trên nền tảng sở hữu Nhà nước mà xem nhẹ vai trò cơ chế thị trường. Mâu thuẫn này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Chừng nào vấn đề này chưa được giải quyết tốt, chừng đó việc phát huy được hết tiềm lực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước còn gặp khó khăn.
Thực tế hiện nay cho thấy, khu vực kinh tế chủ đạo - kinh tế nhà nước - chỉ đảm bảo việc làm cho 2 triệu trong tổng số 40 triệu người lao động. Tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp cũng không phải là lớn; bên cạnh đó xu hướng cổ phàn hoá doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, liệu chăng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang ngày càng bị thu hẹp cả về phạm vi và mức độ ảnh hưởng, càn giải thích rõ được vấn đề này mới có thể tạo được niềm tin vào định hướng phát triển của đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực hiện trong những năm qua.
về nguyên tắc, chức năng nhà nước - thị trường, Nhà nước - doanh nghiệp. Sự phân định đó đang diễn ra theo kiểu cái gì Nhà nước không làm được thì thị trường và doanh nghiệp mới được làm. Cũng không phải theo cách Nhà nước cố gắng làm mọi thứ tối đa có thể, phàn còn lại mới là của thị trường, của doanh nghiệp.
Hiện nay Nhà nước ta đang tham gia quá sâu, quá rộng vào các chức năng của thị trường và doanh nghiệp trong khi nhiều lĩnh vực thuộc chức năng của mình lại chưa được hoàn thành tốt. Đó là tình trạng “nắm những cái không càn nắm; buông những cái không được buông”.
Nhìn chung cách xử lý vấn đề hiện nay chưa đặt trên lợi ích phát triển nền kinh tế thị trường như một tổng thể. Nó đang bị chi phối bởi tàm nhìn và lợi ích cục bộ của các bộ, ngành. Đó là cách làm phi thị trường nó sẽ có cản trở, thậm chí phá hoại định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.

Post a Comment

0 Comments