CHUYÊN ĐỀ 4: ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
1. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cán bộ, công chức
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
- Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là quyết
tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức
làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của
cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh
quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn
luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của
mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”. Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi giáo dục
mọi người thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và đưa vào những
khái niệm đó nội dung mới cho phù hợp với phẩm chất cách mạng của cán bộ, Đảng
viên ta.
+ “Cần” được Hồ Chí Minh phân tích không chỉ là sự cần
cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai mà phải là làm việc có kế hoạch, khoa học, biết
cải tiến kỹ thuật để đem lại năng suất lao động cao để xây dựng một chế độ xã hội
tốt đẹp.
+ “Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí,
tiết kiệm chỉ là những yếu tố vật chất mà theo người cần tiết kiệm cả về mặt thời
gian, làm công việc phải cho nhanh không nên chậm rãi. Tiết kiệm không có nghĩa
là bủn xỉn, keo kiệt. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên
tiêu. Khi có việc đáng làm thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu sức cũng vui
lòng. Tiết kiệm cần đi đôi với chống xa xỉ, ăn sung mặc đẹp khi đồng bào còn
thiếu thốn đó là xa xỉ, cần phải hạn chế
nhu cầu này.
+ “Liêm” là trong sạch, không tham lam, không tham tiền,
của, địa vị, danh lợi. Bác dạy cán bộ luôn phải giữ lấy chữ liêm làm đầu. Nếu
tham tiền của, danh lợi, địa vị đó là bất liêm, bất liêm sẽ dẫn tới làm bậy, xã
hội sẽ loạn. Từ đó Hồ Chí Minh còn đưa ra những biện pháp để trừng trị bất liêm
như: Phải sử dụng pháp luật để trừng trị kẻ bất liêm. Cán bộ thi đua thực hành
liêm khiết, một dân tộc mà biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
+ “Chính” là thẳng thắn, đúng đắn, là người làm việc
công phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người
tư dùng vào việc công. Việc gì cũng phải công minh chính trực, không nên tư ân,
tư huệ, tư thù, tư oán. Đấy là những đức tính xấu của con người, phải dùng người
tài năng, làm được việc, phải trung thành với Chính phủ và đồng bào. Không được
lên mặt làm “quan cách mạng”.
+ “Chí công vô tư” có nghĩa là hết sức lo cho công việc
chung, không màng tư lợi. Hết sức vì sự
công bằng, biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, của Tổ quốc,
của tập thể lên trên lợi ích của riêng tư. Thực hiện được đạo đức này, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là đã thực hiện được trách nhiệm mình vì mọi người,
mọi người vì mình, thực hiện được đạo đức này cũng chính là đã chối được chủ
nghĩa cá nhân, đấy là kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng, nó sẽ dẫn
người ta đi đến những căn bệnh tham lam, ích kỉ, quyền hành, tự kiêu, tự tại,
coi thường tập thể, từ đó thiếu ý thức tổ chức, tinh thần trách nhiệm không
cao, tính kỷ luật kém làm hại đến nhân dân, Đảng và cách mạng. Bên cạnh những chuẩn
mực đạo đức như cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
đề cập một số phạm trù đạo đức như nhân, nghĩa, trí, dũng, tín với tư cách những
phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng
là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán
bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh
Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính
sách và nghị quyết của Đảng”. Đạo đức cách mạng theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi công chức phải là công bộc của dân, mọi hoạt động đều lấy nhân dân
làm mục đích phục vụ. Công chức phải hiếu với dân - nghĩa là, tuyệt đối trung
thành phục vụ nhân dân, “Lấy dân làm gốc” phát huy quyền dân làm chủ.
- Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng là kết quả của sự vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mắc
- Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người cho rằng:
Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó xóa đi những gì là lỗi thời và phát
huy mạnh mẽ những tiềm năng tinh thần, những phẩm chất đạo đức đang tồn tại. Sự
nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có con người cách mạng với tinh thần cách mạng.
Cho nên, đạo đức cách mạng là bước ngoặt lớn nhất, bước ngoặt căn bản của lịch
sử đạo đức Việt Nam trong truyền thống đạo đức Việt Nam. Đạo đức này phục vụ cho
sự nghiệp cách mạng và bản thân nó cũng tạo cho mình một chuyển biến cách mạng.
- Đạo đức cách mạng trước hết là đạo đức của những người
làm cách mạng, là đạo đức của cán bộ, đảng viên, những người phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đạo đức cách mạng của cán bộ, công chức được thể hiện thông
qua những hành vi hoạt động của họ vì cách mạng, vì sự nghiệp chung của nhà nước
và xã hội. Do vậy, đạo đức cách mạng khác hẳn với đạo đức cũ.
b. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức nghề nghiệp
Hồ Chí Minh khi
bàn về vấn đề đạo đức của đảng viên, cán bộ, công chức thường sử dụng các phạm
trù “Đức” và “Tài”. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm xử lý hài hòa chú trọng hai phẩm chất này vì công cuộc xây dựng, đổi mới đất
nước, đồng thời đặt ra những yêu cầu về tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất
và năng lực đối với cán bộ công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Công chức
phải có đức, có tài. Người viết rằng Cũng như sông phải có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Khi nói, người cán bộ, công chức có đức, có tài là muốn đề cập
đến những khía cạnh hết sức cụ thể chẳng hạn: Phẩm chất chính trị; phẩm chất đạo
đức; trình độ học vấn; chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành... và tài bao chứa
ở trong nhau. Hơn bao giờ hết, đạo đức cán bộ, công chức phải thể hiện sự thống
nhất giữa đức và tài, trong đó đức là gốc.
Việc đòi hỏi cán bộ, công chức phải có đức, có tài
trong thực thi công vụ là muốn đề cập tới những tiêu chuẩn chung nhất của người
cán bộ, công chức. Đối với cán bộ, công chức, tất yếu có kiến thức về quản lý
nhà nước; có năng lực điều hành và tổng kết thực tiễn; có khả năng thể chế hoá
các chỉ thị và nghị quyết của Đảng, tinh thông về chính sách và pháp luật; nghiệp
vụ hành chính; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi trọng cả
"đức" và "tài", "đức" là gốc.
Hồ Chí Minh chính là hiện thân của mối quan hệ "đức"
và "tài". Ở Người, "đức" và "tài" là một, "đức"
là biểu hiện của "tài" và "tài" là biểu hiện của "đức".
Người cho rằng cán bộ, công chức, viên chức, muốn giúp công việc Chính phủ một
cách đắc lực, nâng cao tinh thần kháng chiến, phải có bốn đức tính là: cần, kiệm,
liêm, chính.
Đây cũng là bốn đức tính đạo đức cần có của người cán
bộ, đảng viên, công chức hiện nay thể hiện
thông qua những hành vi cụ thể trong hoạt động thực thi công vụ. Hành vi đạo đức
của cán bộ, công chức hình thành và phát triển trong thực tiễn cuộc sống hàng
ngày phục vụ nhân dân; phụng sự sự nghiệp cách mạng của Đảng. Không có đạo đức
chung chung, trừu tượng, bên ngoài cuộc sống, càng không có thứ đạo đức suông.
Cán bộ, công chức phải gương mẫu về đạo đức. Sự gương mẫu về đạo đức là một
trong những chuẩn mực đặc trưng của nền công vụ. Người có quyền lực càng lớn, địa
vị càng cao thì càng phải thường xuyên tu dưỡng và làm gương sáng về đạo đức.
Đạo đức cán bộ, công chức theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh còn có nghĩa là Chính phủ, cán bộ phải lấy tinh thần là công bộc của dân,
là đầy tớ của dân mà đối xử với dân. Quan điểm này có thể coi là một đặc trưng
tiêu biểu của đạo đức công vụ. Tinh thần đầy tớ của dân một mặt có ý nghĩa là
tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân mặt khác có ý nghĩa người được giao trách
nhiệm đại diện cho nhân dân phải tận tâm, tận tụy với công việc, với dân, phụng
sự nhân dân hết mình như giữ đạo hiếu với cha mẹ. Cán bộ là “công bộc của dân”,
là “đầy tớ của dân” càng có ý nghĩa khi sự nghiệp đổi mới hiện nay cần có sự
tham gia của toàn dân, cần phát huy, học tập và làm theo những tình cảm đạo đức
trong sáng của Người. Đạo đức cán bộ, công chức ở Việt Nam dựa trên lập trường
của giai cấp công nhân chỉ có một mục đích: Vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của
nhân dân; chỉ có một tinh thần: Tận tụy hy sinh vì dân, vì nước. Đạo đức cán bộ,
công chức “đức” và “tài” không tách rời nhau.
II. ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
1. Khái niệm đạo đức công vụ
Công vụ là một nghề, vì thế, đạo đức công vụ cũng là một
dạng đạo đức nghề nghiệp, nhưng là dạng đạo đức đặc biệt, bởi vì khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cán bộ, công chức vừa phải đảm bảo những tiêu
chí, giá trị đạo đức chung, vừa phải tuân thủ những nguyên tắc trong thi hành
công vụ, bảo đảm hài hòa vừa hợp hiến, hợp pháp, hợp lý. Với cách tiếp cận như
vậy, có thể quan niệm: đạo đức công vụ là những tiêu chí, chuẩn mực đạo đức của
cán bộ, công chức trong thực thi công vụ; khi thực thi công vụ, cán bộ, công chức
phải tuyệt đối chấp hành. Điều này có nghĩa là:
- Người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói riêng,
trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị nói chung, tùy theo chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình có trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho thủ
trưởng đơn vị và các phòng ban chức năng xây dựng, ban hành các chính sách, thể
chế quản lý với tinh thần phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân làm ăn sinh sống, thực hiện các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân; cung cấp các dịch vụ hành chính công cho nhân dân đảm bảo yêu cầu thuận tiện,
không sách nhiễu phiền hà, tôn trọng dân tránh thái độ cửa quyền, ban ơn.
- Đối với công chức ở các đơn vị, tổ chức sự nghiệp phục
vụ các dịch vụ xã hội, dân sinh như các tổ chức y tế chăm sóc sức khỏe cho dân,
các cơ sở giáo dục, các cơ sở dịch vụ văn hóa tinh thần và các dịch vụ dân sinh
khác phải làm hết trách nhiệm, nghĩa vụ với tinh thần tận tụy, tôn trọng nhân
cách của con người, thương yêu con người, phấn đấu vì một xã hội tốt đẹp. Thái
độ cửa quyền, ban ơn, hách dịch hoặc thương mại hóa các hoạt động dịch vụ đó đều
trái với phẩm chất đạo đức của người công chức XHCN.
- Tính nguyên tắc
và ý thức tổ chức kỷ luật là quy định bắt buộc để công chức thực hiện nhiệm vụ,
công vụ; là việc chấp hành nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm việc, không
tùy tiện, không làm việc theo tùy thích và cảm tình cá nhân; là tận tâm, tận lực
hoàn thành tốt nhiệm vụ với tính tự giác cao. Trong hoạt động công vụ, nhân sự
hành chính là khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả công việc.
Toàn bộ đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, các cơ quan hành chính trong thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân giao nếu “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong.
Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân
lý...”, do vậy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
. - Đoàn kết, hợp tác với đồng nghiệp trong cơ quan, với
các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức có liên quan tới công vụ nhằm phát huy trí
tuệ, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt
nhất. Người có tinh thần và thể hiện sự đoàn kết, hợp tác là người biết nhận
khó khăn về mình, gặp khó khăn, trở ngại trong công việc biết hợp tác cùng nhau
tìm cách giải quyết, không tranh công, đổ lỗi và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp
cùng hoàn thành nhiệm vụ. Không ganh tỵ, đố kỵ tạo cơ hội để đồng nghiệp cùng
phát triển, tiến bộ. Tinh thần đoàn kết, hợp tác đòi hỏi người công chức phải
vì tập thể, vì việc công, có ý thức xây dựng cơ quan tập thể nơi mình công tác
thành đơn vị vững mạnh. Cùng với ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức công vụ đòi hỏi
ở người công chức phải làm việc có tinh thần sáng tạo, phát huy sáng kiến, hoàn
thành nhiệm vụ, không thụ động, máy móc, quan liêu.
- Có tư duy sáng tạo, có phương pháp làm việc khoa học,
biết đề xuất sáng kiến để nâng cao năng suất lao động, hoàn thành nhiệm vụ với
hiệu quả cao là những phẩm chất rất cơ bản và cần thiết của đạo đức công chức
trong nền công vụ hiện đại. Tinh thần lao động sáng tạo, xuất phát từ bản chất
và lợi ích của giai cấp công nhân. Và cũng chính những đặc điểm đó quy định phẩm
chất đạo đức của người công chức XHCN.
2. Những giá trị cốt lõi và của đạo đức công vụ
Cũng như nhiều loại nghề nghiệp khác, công việc do
công chức đảm nhận thực hiện (công vụ) phải hướng đến những giá trị nhất định.
Do bản chất của công việc mà công chức đảm nhận là QLNN và cung cấp dịch vụ
hành chính công cho xã hội nên những giá trị cốt lõi của công vụ phải được xác
định dựa trên thuộc tính của các công việc cụ thể mà công chức đảm nhận. Công
việc mà công chức đảm nhận thực chất là sự ủy thác quyền lực của nhân dân cho
nhà nước thực hiện, thông qua đội ngũ cán bộ, công chức cùng với cơ sở vật chất
hiện thực để thực thi công vụ phục vụ nhân dân. Do đó, trong thực thi công vụ
phục vụ nhân dân đòi hỏi công chức phải có đạo đức công vụ. Đạo đức công vụ là
những giá trị đạo đức và chuẩn mực pháp lý được áp dụng cho cán bộ, công chức
nhà nước và những người có chức vụ, quyền hạn khác khi thi hành nhiệm vụ, công
vụ.
Giá trị cốt lõi mà công chức đảm nhận thể hiện ở cách
công chức xử sự và đóng góp để xã hội tốt đẹp hơn, bao gồm dịch vụ công tốt và
từng cá nhân công chức cũng phải thường xuyên trau dồi, bồi dưỡng về mọi mặt để
tiến bộ hơn. Hơn thế, đạo đức của công chức còn là những chuẩn mực giá trị đạo
đức và hành vi ứng xử thể hiện vai trò công bộc của công chức trong quan hệ với
nhân dân. Nói cách khác, đó là sự điều chỉnh và xem xét về mặt đạo đức các quyết
định và hành động của công chức trong quá trình thực thi công vụ.
Trên thực tế, giá trị cốt lõi của đạo đức công vụ mà
công chức đảm nhận thường là những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp trong việc quản
lý nhà nước trên từng lĩnh vực cụ thể của đời sống. Những giá trị ấy góp phần
tăng cường đạo đức công chức, làm tăng thêm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
mỗi công chức qua những hoạt động, hành vi cụ thể trong quá trình thực thi công
vụ. Mỗi công chức trong nền công vụ đều phải tự giác, tự nguyện xác định cho
mình sự tôn trọng các quy tắc ứng xử mang tính nghề nghiệp.
Theo mong đợi từ xã hội, công chức phải tham gia vào đời
sống chính trị - xã hội ở cấp độ cao nhất của sự liêm chính. Bởi vì, mục đích
cuối cùng của nền công vụ là phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với nhân dân.
3.
Quá trình hình thành đạo đức công vụ
Quá trình hình thành đạo đức công vụ của công chức có
thể chia thành ba giai đoạn. Tuy nhiên, việc phân chia chi tiết các giai đoạn
này chỉ mang tính tương đối.
- Giai đoạn tự phát, tiền công vụ
Quá trình hình thành đạo đức công vụ cũng giống như
quá trình hình thành đạo đức nói chung. Đó là một quá trình từ nhận thức, ý thức
đến tư duy hành động và cuối cùng được chuẩn hóa thành quy tắc, quy chế và pháp
luật của nhà nước. Những giá trị của công vụ không chỉ được xem xét từ trong
các tổ chức nhà nước mà còn phải từ hoạt độngtham gia xây dựng Nhà nước ngày
càng gia tăng của nhân dân: Nhà nước càng ngày càng dân chủ trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội; vai trò của nhân dân ngày càng trở nên thiết yếu
quan trọng trong giám sát các hành vi ứng xử của cán bộ, công chức, đòi hỏi cán
bộ, công chức phải vươn đến giá trị cốt lõi mà công dân mong muốn.
- Giai đoạn pháp luật hóa, bắt buộc tuân thủ
Những người là công chức đã được pháp luật quy định.
Tuy nhiên, nội hàm của công chức có sự thay đổi theo sự vận động, cải cách hoạt
động quản lý nhà nước và hệ thống chính trị. Khi nói về đạo đức công vụ là đề cập
đến những khía cạnh đạo đức của công chức khi thực thi công vụ, nhiệm vụ của họ,
song cũng có thể vận dụng đạo đức trong thực thi công vụ cho tất cả nhóm người
làm việc cho nhà nước, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của hệ thống chính trị. Từ
Sắc lệnh 76/SL năm 1950 đến Luật cán bộ, công chức năm 2008 đã có những sự thay
đổi về cách phân loại và gọi tên công chức. Xu hướng chung hiện nay của các nước
trên thế giới là pháp luật hóa những giá trị cốt lõi của công vụ (pháp luật về
công vụ) và pháp luật hóa những quy tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức cũng như
hành vi ứng xử của công chức trong thực thi công vụ. Từ các nước phát triển đến
các nước đang và chậm phát triển đã đều từng bước đưa ra những giá trị chuẩn mực
đạo đức trong thực thi công vụ, đòi hỏi của công chức phải nghiêm túc chấp
hành.
- Giai đoạn tự giác
Quá trình hình thành đạo đức công vụ là các giai đoạn
phát triển nhận thức từ tự phát đến thể chế hóa thành pháp luật của nhà nước và
cuối cùng là hình thành chuẩn mực đạo đức mang tính tự giác thực hiện trong thực
thi công vụ của công chức. Ba giai đoạn phát triển và hình thành đạo đức công vụ
có ý nghĩa và vai trò khác nhau, nhưng đều hướng đến đích cuối cùng là xác lập
tính tự giác tuân thủ và thực hành các chuẩn mực, tiêu chí đạo đức của cán bộ,
công chức trong thực thi công vụ. Nhiều trường hợp khó, thậm chí không thể kiểm
soát được hoạt động của công chức bằng pháp luật, vì tính đa dạng, đa diện của
hoạt động công vụ. Khi đó, lương tâm nghề nghiệp, đạo đức công vụ với tư cách sự
điều chỉnh từ bên trong sẽ là nhân tố quyết định, thúc đẩy công chức thực thi
công vụ một cách tốt nhất để phục vụ tốt người dân và quản trị tốt quốc gia.
4. Các thành tố của đạo đức công vụ
- Đạo đức người công chức nói chung và đạo đức công chức
khi thực thi công vụ (đạo đức công vụ) do nhiều yếu tố khác nhau cấu thành, với
nhiều cấp độ, mức độ khác nhau. Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo
đức cá nhân của người công chức. Do vậy, muốn tìm hiểu, nghiên cứu đạo đức nghề
nghiệp của công chức, đòi hỏi phải xem xét từ khía cạnh đạo đức cá nhân công chức.
Công chức thực thi công việc của nhà nước cũng là một con người. Họ có tất cả
các yếu tố của một con người - cá nhân. Từ giác độ đạo đức cá nhân, công chức
cũng như mọi công dân. Từ giác độ là công chức - người đại diện cho nhà nước,
thì bản thân công chức lại có những đòi hỏi khác từ phía xã hội, dư luận và nghề
nghiệp.
+ Một là, công chức xét theo nghĩa chung nhất là người
góp phần xây dựng và thực thi pháp luật. Như vậy, họ là người am hiểu nhất những
giá trị cốt lõi của pháp luật. Nếu họ vi phạm chuẩn mực đạo đức trong thực thi
công vụ, thực thi pháp luật thì tác động rất lớn đến xã hội.
+ Hai là, công chức cũng là người triển khai tổ chức
thực hiện, đưa những giá trị cốt lõi của pháp luật vào đời sống (với nghĩa họ
là người triển khai tổ chức thực hiện pháp luật). Sự tuân thủ pháp luật cũng
chính là tấm gương cho người khác tuân theo.
+ Ba là, công chức là công dân và do đó cũng phải tuân
thủ các quy định chung của pháp luật dù bất cứ vị trí nào. Song, đây là một
trong những thách thức về khía cạnh đạo đức cá nhân công chức trong thực thi
công vụ nếu họ không khách quan, liêm chính.
- Đạo đức công vụ được hình thành từ đạo đức xã hội của
bản thân công chức: Đạo đức xã hội như trên đã nêu là chuẩn mực, những giá trị
của các giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Đạo đức xã hội và các cam kết
thực hiện những giá trị chuẩn mực của đạo đức xã hội tạo ra tiền đề cho xã hội
phát triển. Về phương diện này, công chức phải là người tích cực nêu cao và thực
hành những giá trị chuẩn mực đạo đức phù hợp với lẽ phải thông thường của xã hội,
chống lại cái ác, bất thiện. Đạo đức xã hội của công chức thể hiện tính dân chủ
của công vụ mà công chức thực thi công vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Sự
không thiên vị, vô tư và trong sáng làm cho người dân cảm nhận được sự tin tưởng
hơn ở nhà nước, mà công chức là người đại diện; trong khi đó, nếu thiên vị vì
nhiều lý do khác nhau sẽ làm cho tính chất công vụ thay đổi, làm giảm niềm tin
của người dân đối với nhà nước. Vì vậy, về nguyên tắc nghề nghiệp, công chức
không chỉ thể hiện tính đạo đức của mình thông qua các giá trị đạo đức nghề
nghiệp nói chung, mà còn phải tuân theo những giá trị đạo đức nghề nghiệp đặc
thù trong thực thi công vụ. Ví dụ: Luật cán bộ, công chức quy định những chuẩn
mực đạo đức trong hoạt động công vụ của công chức, công chức phải coi đó như “là chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp có tính tối thiểu”, không được vi phạm và từng bước tự giác nâng cao tối
đa giá trị đạo đức nghề nghiệp vượt trên cả chuẩn mực pháp lý - đạo đức công vụ
trong thực thi công vụ của mình.
Trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, nhiều
người cùng làm việc, nhưng nắm giữ các vị trí khác nhau, do đó cần có những quy
định mang tính đạo đức cho từng nhóm công chức: nhóm công chức nắm giữ các vị
trí lãnh đạo, quản lý; những người làm việc cho nhà nước được xếp vào ngạch, bậc,
mang tính thường xuyên và những người thuộc hệ thống bầu cử.
- Đạo đức công vụ là sự tổng hòa của hai nhóm nhóm đạo
đức xã hội và đạo đức cá nhân người công chức trong thực thi công vụ:
Công chức thực thi công vụ của nhà nước giao cho, đòi
hỏi phải có cả đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội theo hướng tích cực, được xã hội
chấp nhận. Mặt khác, họ phải có đạo đức nghề nghiệp theo từng loại nghề cụ thể.
Tuy nhiên, do vị trí đặc biệt của công chức, hoạt động của họ bị ràng buộc
không chỉ những quy định trên, mà còn chịu ràng buộc của pháp luật quy định đối
với chính họ và công việc mà họ đảm nhận. Công chức thự nhận thức đúng đạo đức
trong thực thi công vụ của mình, đó là:
+ Đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội;
+ Đạo đức nghề
nghiệp;
+ Những quy định pháp luật về hoạt động công vụ.
Trong đó, muốn có đạo đức công vụ tốt, công chức trong
thực thi công vụ phải có nền tảng đạo đức cá nhân tốt, vừa phải có phông đạo đức
xã hội mang tính tự giác cao; đồng thời phải có ý thức tuân thủ, thượng tôn
pháp luật, nhất là những quy định pháp luật đối với khu vực công và người là việc
trong khu vực công.
5. Nội dung cơ bản của đạo đức công vụ
Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ công chức. Người
thường xuyên nhắc nhở công chức nhà nước phải thấm nhuần và thực hiện đồng thời
hai việc: tuân thủ pháp luật nhà nước, kỷ luật của tổ chức và giữ gìn đạo đức
cách mạng. Đó là hai việc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đạo đức cách mạng đòi hỏi
người công chức nhà nước bất kỳ vực công tác nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào
cũng không được vi phạm pháp luật và coi thường kỷ luật của cơ quan. Người nhận
thức sâu sắc về vai trò, vị thế xã hội của đội ngũ công chức trong đời sống xã
hội. Người chỉ rõ, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc rất nhiều
vào chất lượng của đội ngũ công chức, bởi lẽ: “Cán bộ là cái dây truyền của bộ
máy. Nếu dây truyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ
máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể
thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thi hành
được”
a) Các chuẩn mực đạo đức
Thứ nhất, công
chức phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng. Công chức là những người
ăn lương nhà nước, làm việc trong bộ máy nhà nước, mà nhà nước ta là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì thế nên trung thành với sự nghiệp cách mạng
là phẩm chất đạo đức đầu tiên cần phải có ở công chức.
Thứ hai, công chức phải có ý thức rèn luyện chuyên môn
nghiệp vụ. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ là phẩm chất thuộc về tài còn ý thức
rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ là phẩm chất thuộc về đức. Bất kỳ ai, khi làm bất
cứ việc gì và bất cứ ở đâu mà không thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ thì đều thể
gây ra tác hại lớn cho xã hội. Đặc biệt, đối với công chức, những người hoạt động
trong bộ máy nhà nước, liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, sự không thạo việc
của họ sẽ dẫn đến tác hại khôn lường.
Thứ ba, công chức phải có mối liên hệ mật thiết với
nhân dân. Đây là yêu cầu tất yếu của công chức vì nhà nước ta là nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần
chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin,
dân phục, dân yêu”
Thứ tư, công
chức phải dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, không hoang mang khi thất bại,
không kiêu ngạo khi thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ và đảng viên
cần nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân ... phải “chí công vô tư” và có tinh thần” lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”
. Thứ năm, công
chức phải trung thực, luôn có chí tiến thủ, luôn tự phê bình và phê bình, không
thành kiến, không giấu khuyết điểm, phải là một tấm gương mẫu mực về đạo đức
cách mạng, phải vì dân vì nước. Đạo đức của người cách mạng không phải là những
giáo điều nói suông mà phải là đạo đức của hành động.
Thứ sáu, công chức phải cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, từ sự đóng góp của
nhân dân; nhân dân trả công cho cán bộ, công chức để phục vụ họ thì những người
này phải cố gắng làm để phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhân dân, đó là cần. Sở
dĩ có nạn tham ô và lãng phí là do bệnh quan liêu. Vì mắc bệnh quan liêu thành
thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững, đó là không liêm, không chính. Công chức
làm việc công, tiêu tiền công, lại có ít nhiều quyền hành nếu không có ý thức,
tinh thần cao thì rất dễ hủ bại, đó là thiếu chí công vô tư.
Thứ bảy, công chức phải có tinh thần trách nhiệm cao với
công việc, không nên suy bì xem công việc của mình có quan trọng hay không;
công việc nào cũng cần thiết đối với cách mạng; khi đã làm việc gì dù gặp khó
khăn, trở ngại cũng phải quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thứ tám, công chức phải chấp hành nghiêm kỷ luật và có
tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ, có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn
đấu trong công việc. Cán bộ, công chức phải luôn có chí tiến thủ, tinh thần cầu
tiến bộ. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ cần phải gương mẫu
về đạo đức, tự giác tuân thủ kỷ luật của cơ quan, giữ vững nền nếp công tác,
tránh được những cám dỗ; cán bộ phụ trách phải theo đường lối chung nhưng cũng
phải suy nghĩ tìm tòi, có những sáng kiến riêng của mình.
Thứ chín, công chức phải có tinh thần thân ái, hợp tác
với đồng nghiệp trong thực hiện công việc. Mọi người cần đoàn kết thân mật, hợp
tác chặt chẽ với nhau thì công việc mới hoàn thành được; thân ái, hợp tác ở đây
không phải là bao che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật trong thi
hành công vụ và trong cuộc sống.
b. Các chuẩn mực
pháp lý
Trong Luật cán bộ, công chức năm 2008, thuật ngữ “đạo
đức” lần đầu tiên được đưa vào trong văn bản pháp luật về cán bộ, công chức.
- Luật quy định có tính định hướng về những giá trị tốt
lõi cần quan tâm khi thi hành công vụ, đó là:
+ Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
+ Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân; + Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm
tra, giám sát;
+ Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông
suốt và hiệu quả;
+ Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ.
- Cụ thể hóa những nghĩa vụ mà cán bộ, công chức phải
thực hiện:
+ Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước
CHXHCN Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia;
+ Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân;
+ Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân;
+ Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
+ Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
+ Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội
quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát
hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật
nhà nước;
+ Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ;
giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản
nhà nước được giao;
+ Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho
rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với
người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi
hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu
trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp
của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về quyết định của mình;
+ Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của
cán bộ, công chức;
+ Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc
để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân
chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời,
nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật,
pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công
dân;
+ Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị
của cá nhân, tổ chức;
+ Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức phải có
thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ
ràng, mạch lạc;
+ Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng
nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ
và đoàn kết nội bộ;
+ Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang
phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho
cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp;
+ Cán bộ, công
chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịchsự, nghiêm túc, khiêm
tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc;
+ Cán bộ, công chức không được hách dịch, cửa quyền,
gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ.
- Quy định những việc cán bộ, công chức không được làm
gồm:
+ Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được
giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công;
+ Sử dụng tài sản của nhà nước và của nhân dân trái
pháp luật;
+ Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng
thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi;
+ Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức;
+ Không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật
nhà nước dưới mọi hình thức;
+ Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên
quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết
định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề
mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá
nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.
Ngoài những việc cán bộ, công chức không được làm như
đã nêu, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất,
kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật
và của cơ quan có thẩm quyền.
c) Thực hành đạo đức
công vụ
Để thực hành đạo đức nói chung, mỗi con người cần phải:
Một là, đối với bản thân mình, không tự kiêu, tự đại.
Tự kiêu, tự đại tức là thoái bộ, do đó ai cũng phải luôn luôn cầu tiến bộ, tự
kiểm điểm, tự phê bình để cùng tiến lên với người khác.
Hai là, đối với người, không nịnh hót người trên,
không khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, giúp người tiến bộ,
thực hành bác ái.
Ba là, đối với công việc phải để việc nước trên việc
nhà. Đã làm việc gì thì phải hoàn thành, vượt khó khăn, nguy hiểm không kể việc
to hay nhỏ. Việc thiện thì nhỏ mấy cũng phải làm. Việc ác thì nhỏ mấy cũng
tránh; Một dân tộc mà biết cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ là một dân
tộc văn minh, đây là những yếu tố để chỉ một xã hội hưng thịnh. Nếu đi trái với
những chuẩn mực này xã hội sẽ mục nát, suy vong.
Từ ba nội dung trên, có thể xác định việc thực hành đạo
đức công vụ ở hai khía cạnh lớn sau đây:
* Đối với đội ngũ cán bộ, công chức
- Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng;
- Không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực, chịu
học, biết học và biết học có hiệu quả;
- Luôn luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn;
- Kiên trì tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng
công tác;
- Rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả
năng cùng làm việc với tập thể, khả năng tổ chức thực hiện và biết chịu trách
nhiệm;
- Kiên trì cuộc đấu tranh chống lại dốt nát, nghèo
đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự lười biếng, sự đố kỵ, tham nhũng, cửa quyền,
quan liêu, cách sống buông thả và sa đoạ;
* Đối với nhà nước, các cơ quan nhà nước
Một là, xây dựng và hoàn thiện quy chế công vụ, đạo đức
công vụ, thông qua hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy của các cơ quan
nhà nước cho từng loại, từng chức danh công chức, bao gồm: những chuẩn mực về đạo
đức công vụ; chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; chuẩn mực về tính hợp pháp của hành
vi công vụ; chuẩn mực về niềm tin nội tâm của người công chức (bản lĩnh dựa
trên kiến thức, kinh nghiệm và ý thức chấp hành pháp luật). Cụ thể hoá những
giá trị đạo đức như: Lòng trung thành, cần, kiệm, liêm, chính... thành những
chuẩn mực cụ thể trong hành vi công vụ, trong những bối cảnh và quan hệ xác định.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế dân chủ, bằng những
quy định và chuẩn mực pháp luật, để nhân dân tham gia xây dựng và giám sát hoạt
động của đội ngũ cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ,
công chức (quy trình đánh giá, nội dung đánh giá) theo hướng công khai, dân chủ,
có sự tham gia của dư luận xã hội và công dân.
Bốn là, xây dựng quy chế về cam kết và lời thề công vụ
của cán bộ, công chức khi được bổ nhiệm.
Năm là, đầu tư nghiên cứu về đạo đức công vụ; về những
giá trị, lý tưởng đạo đức công vụ để từng bước cụ thể hoá nó thành những chuẩn
mực pháp luật; nhất là, nghiên cứu về đạo đức công vụ trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay.
c. Thực hành đạo đức công vụ
- Công chức khi thi hành công vụ phải coi trọng nguyên
tắc, ý thức sâu sắc về bổn phận, trách nhiệm, nhất là ý thức rõ rệt về trách
nhiệm cá nhân trước những công việc được giao phó, ủy thác. Bản thân mình có biết
coi trọng nhân cách, phẩm giá, danh dự của mình thì mới biết tôn trọng người
khác, danh dự và nhân phẩm của người khác.
- Rèn luyện đạo đức hàng ngày để tự hoàn thiện nhân
cách. Khi thi hành công vụ, công chức phải trung thực, khiêm tốn, giản dị, ham
học, ham làm, ham tiến bộ, quý trọng con người, có tình thương yêu đồng chí lẫn
nhau. Yêu cầu rất cao về đạo đức đối với người công chức là người công chức phải
là hiện thân của đạo đức. Sẽ không có gì phản diện hơn khi mà người được giao
nhiệm vụ chăm lo cho sự trong sạch, phục vụ nhân dân lại là người không có đủ
năng lực và đạo đức tương xứng với công việc, chức trách được giao. Điều đó
đánh mất niềm tin, lòng tin của nhân dân đối với nền công vụ.
- Công chức thực hành đạo đức công vụ cũng giống như
đi vào một cuộc chiến đấu, dũng cảm chống lại những cái xấu xa, hư hỏng, lỗi thời,
xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi, tiến bộ. Theo tinh thần đó, phải đặc biệt
chú trọng tự rèn luyện các đức tính: Cần kiệm, liêm chính; các nguyên tắc sống:
Chí công vô tư. Đó là cần mẫn, siêng năng, chu đáo, cẩn thận, tiết kiệm, hết
mình trong công việc, hết lòng với con người. Không trễ nải công việc, không xa
lánh con người do quan liêu, cửa quyền, hách dịch: “Tận tụy với công việc,
thanh liêm (không hà lạm công quỹ, không tham ô), coi nhân dân là đối tượng phụng
sự (không quan liêu, hách dịch), thương yêu đồng nghiệp (không đố kỵ, kèn cựa,
vu khống, đặt điều…), coi bổn phận là tiêu chí thực thi công vụ (không ghen
ghét coi thường người dưới tuổi có chức vụ cao, có sáng kiến)… là yêu cầu và là
chuẩn mực đạo đức công chức khi thực thi công vụ”.
Như vậy, muốn
có đạo đức tốt phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời, rèn từ việc nhỏ đến
việc lớn, cán bộ công chức từ mới đến cũ, từ trẻ đến già, từ cấp thấp đến cấp
cao, trách nhiệm càng cao thì càng phải thực hành đạo đức - ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong. Để rèn luyện đạo đức công vụ, công chức trước
hết phải thực hiện tốt những quy định về chuẩn mực đạo đức trong các văn bản
mang tính pháp lý; những quy định về quyền lợi và nghĩa vụ và những điều công
chức không được làm, đó là hành lang pháp lý để công chức tự rèn luyện, tu dưỡng
có hiệu quả.
0 Comments