Mục đích của các
nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng
nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có
hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a) Phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn
phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp
chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện
trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời
gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng
phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó
4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư.
Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động
thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là
4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện
thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng
lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư
là 100% thì bây giờ là 150%.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng
ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do
thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao
động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của
ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao
động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn
thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và
tinh thần của người lao động.
Trong phạm vi giới
hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều
mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã
kéo dài hàng thế kỷ.
b) Phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh
thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai
cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn
đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất
ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất
yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở
tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị
thặng dư tương đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4
giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều
đó có thể biểu diễn như sau:
Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần
3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao
động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời
gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được
biểu diễn như sau:
Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên
166%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động
tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn
rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ
thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm
vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng
năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc
phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản
xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng
năng suất lao động xã hội.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi
kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ
yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội
dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường
thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc
lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên
được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân
làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản,
việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân,
mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa
sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng
thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
• Giá
trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng
phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của
mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng
hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá
trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao
động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường
của nó.
Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là
hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi.
Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng
tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của
nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp
lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội
tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến
tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị
thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên
là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất
lao dộng xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá
trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ
giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột
của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm
thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên
tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và
lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các
nhà tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là
động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp
dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản
xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.
0 Comments