Làm rõ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội? Ý nghĩa trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay?

Làm rõ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội? Ý nghĩa trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay?

Ý thức xã hội là toàn bộ các lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tư tưởng, quan điểm cùng những tình cảm tâm trạng, truyền thống, .....của một cộng đồng xã hội, nẩy sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.
Ý thức xã hội là lĩnh vực có kết cấu phức tạp, tùy theo từng góc độ xem xét khác nhau mà ý thức xã hội có thể được chia thành các bộ phận khác nhau:
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ...
Theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, ý thức xã hội bao gồm:
Thứ nhất, ý thức xã hội thông thường là toàn bộ tri thức, những quan niệm, .... của những con người trong cùng một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hành ngày, nhưng chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông thường thường phản ánh sinh động, trực tiếp các mặt đời sống xã hội hàng ngày.
Thứ hai, ý thức xã hội lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác các mối liên hệ của sự vật và hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành hệ tư tưởng.
Thứ ba, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là những yếu tố cấu thành ý thức xã hội và là sự phản ánh tồn tại xã hội ở những trnhf độ khác nhau, do đó, chúng có mối quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại với nhau. Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho việc hình thành, phát triển và thâm nhập và phát huy ảnh hưởng của hệ tư tưởng trong đời sống xã hội.
 Trong sự phân chia xã hội thì ý thức xã hội mang tính giai cấp. Các giai cấp có đời sống kinh tế, điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau với những lợi ích khác nhau, do vậy ý thức xã hội giai cấp đó mang nội dung và hình thức không giống nhau trong xã hội.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tồn tại xã hội mang tính thứ nhất, là cái gốc của sự phản ánh. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội phản ánh thế ấy, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, do đó không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện đời sống, vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Tồn tại xã hội quyết định biến đổi ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội nhất là PTSX biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo; sự biến đổi của ý thức xã hội là sự phản ánh đối với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào sẽ không giải thích được nếu nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó điều này đã được C. Mác và Ăngghen chứng minh. Quan điểm lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà đa dạng, phong phú bằng nhiều hình thức đặc thù, trải qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại mà chỉ xét đến cùng thì những mối quan hệ kinh được phản ánh bằng cách này hoặc cách khắc trong tư tưởng ấy. Mặt khác sự phản ảnh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn bị chi phối bởi cái chủ quan của chủ thể cộng đồng phản ánh. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, bị quyết định bởi tồn tại xã hội, nhưng ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại. Trong đó có một bộ phận ý thức xã hội không phản ánh được những thay đổi tất yếu của tồn tại xã hội, không đáp ứng yêu cầu phát triển của tồn tại xã hội mới. Sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Từ trong bản chất ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, ý thức xã hội phản ánh không kịp thời những biến đổi tất yếu của tồn tại xã hội.
Thứ hai: Một bộ phận của ý thức xã hội là truyền thống, tập quán, thói quen, ... của con người từ trong quy luật vận động của nó đã mang tính bảo thủ, khó thay đổi của một số hình thái ý thức xã hội.Thứ ba: do ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội Điều này được chúng minh rằng, lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội những quan điểm, lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những vật liệu lý luận của thời đại đi trước; ý thức của mỗi cộng đồng là kết quả phản ánh tồn tại xã hội của họ và cả ý thức xã hội của các thời đại trước và cả những ý thức của cộng đồng khác trong quá trình giao thoa, du nhập. Cũng do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển cho nên sẽ không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ thuần túy dựa vào dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có. Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn lịch sử hưng thịnh hoặc suy tàn của triêt học, văn học, nghệ thuật, ... nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hay suy tàn của kinh tế. Tính kế thừa của ý thức xã hội nó mang những đặc trưng cơ bản như: kế thừa có tính chọn lọc, tính giai cấp, chi phối bởi lợi ích, ...Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức xã hội khác nhau của các các thời đại trước. Ngược lại những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước.
Sự tác động qua lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại luận điểm của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Điều này đã được Ăngghen khẳng định. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội với nhiều khuynh hướng nó có thể thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển mang tính tích cực, nhanh hơn và ngược lại. Thể hiện thông qua các yếu tố cơ bản sau:
 Một là, trình độ phát triển của ý thức đối với tồn tại xã hội: Khi ý thức xã hội phản ánh đúng đắn quy luật vận động của tồn tại xã hội, phản ánh đúng nhu cầu của tồn tại xã hội một cách khoa học thi sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển và ngược lại.
Hai là, vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng: sự phát triển của xã hội phu thuộc vào nhận thức và hành động của con người, trong đó giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng giữ vai trò chủ đạo. Nó thể hiện trong việc xây dựng, định hướng quan niệm, tư tưởng, ..trong việc tuyên truyền ý thức xã hội, trong việc vận dụng, phát triển vai trò của ý thức xã hội.
 Ba là, mức độ ảnh hưởng của ý thức xã hội trong quảng bá quảng đại quần chúng: Ý thức xã hội chỉ có thể phát huy vai trò, sức mạnh của nó khi chi phối nhận thức, hành động của con người, của quần chúng C.Mác “...lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. Ngoài ra, cấp độ và hiệu quả tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội còn phụ thuộc vào mức độ tương tác qua lại giữa các yếu tố tham gia vào quá trình.
 Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ còn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại. Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ của công cuộc xây dựng xã hội mới.
Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới". Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng định một số định hướng lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới như sau:
Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về bản chất, xã hội mới là xã hội dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ” Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã hội.
Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống tinh thần. Đó là hai mặt không thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất, văn hoá đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được chuyển tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. tạo thành môi trường văn hoá nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hoá còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với tăng cường học tập lý luận, tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Bài học đầu tiên từ 5 bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra sau 20 năm đổi mới là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Đây không phải là chủ trương mới, bởi tinh thần này đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu cách mạng. Năm 1939, khi đưa ra quan điểm của mình về đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " Phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và chính trị cho các đảng viên". Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai đoạn quyết định, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Người đã khẳng định: "Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức- là những việc cần kíp của Đảng". Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, trong Diễn văn khai mạc, một lần nữa, Người khẳng định: "Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng". Vấn đề này tiếp tục được Đảng ta khẳng định qua các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, nó được coi là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Bởi lẽ, để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng, đảng viên còn phải có phẩm chất chính trị tốt, kiên định lập trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Do vậy, xây dựng ý thức xã hội mới cần tiếp tục tăng cường hoạt động lý luận, nghiên cứu sâu rộng và có những bổ sung về lý luận để làm phong phú kho tàng tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới.
Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó không hình thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới, thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học và công nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm không theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái... Tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín, khoá IX, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Thường xuyên chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá nhân, những biểu hiện cơ hội, thực dụng, bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch, chủ động đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân quyền chống phá cách mạng nước ta".
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội mới luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong công tác tư tưởng, nhưng cũng có nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hoá và con người luôn có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Thứ hai, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.
Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện thông tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác -Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác -Lênin hiệu quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi tính tự giác cao. Vì vậy, thông qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những biểu hiện của khuynh hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém... Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các hình thức dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã hội mới một cách chủ động và trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể lãnh đạo, quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng.

Post a Comment

0 Comments