Phân quyền và phân cấp giữa trung ương với địa phương và giữa các cấp chính quyền ở địa phương.
Với quan điểm phân quyền, phân cấp hướng mạnh về địa phương, cơ sở; đồng thời phân định rõ chính quyền địa phương ở vùng nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt để tổ chức bộ máy và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn một cách hợp lý và đề ra cơ chế chính sách phù hợp với đặc điểm của chính quyền địa phương ở mỗi vùng.
Về phân cấp quản lý, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác).
Luật Tổ chức chính quyền địa phương vừa quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở mỗi cấp, vừa quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn cho HĐND và UBND ở cấp đó, theo hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp cơ sở trong khi khả năng đáp ứng yêu cầu của chính quyền cấp này còn nhiều mặt hạn chế. Cùng với phân cấp, phân quyền, luật còn quy định ủy quyền trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản cho UBND cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể.
Phân loại các đơn vị hành chính trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, gồm: đơn vị hành chính đặc biệt là TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; còn lại đơn vị hành chính cấp tỉnh loại I, loại II, loại III; đơn vị hành chính cấp huyện loại I, loại II, loại III; đơn vị hành chính cấp xã loại I, loại II, loại III; đồng thời phân định chính quyền địa phương ở các vùng nông thôn, gồm: tỉnh, huyện, xã; chính quyền địa phương ở vùng đô thị, gồm: thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; phường, thị trấn; chính quyền địa phương vùng hải đảo, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
Việc phân loại chính quyền địa phương nhằm để xây dựng tổ chức bộ máy hợp lý, quy định nhiệm vụ quyền hạn và có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm phát huy tốt hơn hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương ở mỗi cấp, vùng. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; chính quyền địa phương ở địa bàn đô thị chú trọng thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực; trên cơ sở đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở thành phố, thị xã ngoài việc quyết định các vấn đề của địa phương như đối với địa bàn nông thôn, còn tập trung quyết định các vấn đề quy hoạch phát triển đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quản lý và tổ chức đời sống dân cư đô thị.
Về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở các cấp tỉnh, huyện, xã; gồm HĐND và UBND ở mỗi cấp đã được Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định nhiều điểm mới.
Đối với thiết chế HĐND: Thường trực HĐND cấp tỉnh, gồm có Chủ tịch HĐND và 2 Phó Chủ tịch HĐND và các ủy viên là trưởng các ban của HĐND và Chánh văn phòng HĐND cấp tỉnh; Chủ tịch HĐND có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách, Phó Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách.Thường trực HĐND cấp huyện gồm Chủ tịch HĐND, hai Phó Chủ tịch HĐND và các Ủy viên là Trưởng ban của HĐND. Chủ tịch HĐND cấp huyện có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch HĐND cấp huyện là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách.
Thường trực HĐND cấp xã chỉ có Chủ tịch HĐND, một Phó Chủ tịch HĐND; Phó Chủ tịch HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách, Trưởng ban không là thành viên của Thường trực HĐND cấp xã.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã có sự đổi có tính đột phá trong quy định các ban của HĐND; nếu như Luật tổ chức HĐND và UBND chỉ quy định ban ở HĐND cấp tỉnh, cấp huyện thì nay được bố trí đầy đủ ở HĐND 3 cấp tỉnh, huyện, xã và theo xu hướng nâng cao tính chuyên trách trong hoạt động của ban. Đáng lưu ý, lần đầu tiên HĐND cấp xã được thành lập các ban; gồm Ban pháp chế, Ban văn hóa - xã hội; mỗi ban có Trưởng ban và một Phó trưởng ban và các ủy viên hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm.
Nhằm tăng thêm quyền hạn cho đại biểu HĐND, Luật Tổ chức chính quyền địa phương bổ sung một số quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND trong việc kiến nghị, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; yêu cầu cung cấp thông tin khi phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Khi cần thiết, đại biểu HĐND yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
Về thiết chế về UBND các cấp: Luật đã bổ sung những điểm mới, mở rộng hơn số thành viên UBND, gồm những người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc UBND (đối với cấp tỉnh, cấp huyện) và ủy viên phụ trách quân sự, ủy viên phụ trách công an; mở rộng số thành viên nhằm để phát huy trí tuệ tập thể của UBND trong quản lý, điều hành các hoạt động và trong quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND mỗi cấp. Số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp quy định theo phân loại đơn vị hành chính. Cụ thể, đối với UBND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có không quá 5 Phó Chủ tịch UBND; các TP trực thuộc Trung ương còn lại và các tỉnh loại I có không quá 4 Phó Chủ tịch UBND; tỉnh loại II và loại III có không quá 3 Phó Chủ tịch UBND. Đối với cấp huyện, loại I có không quá 3 Phó Chủ tịch UBND; loại II và loại III có không quá 2 Phó Chủ tịch UBND. Đối với cấp xã, loại I có không quá 2 Phó Chủ tịch UBND, loại II và loại III có 1 Phó Chủ tịch UBND.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND; nếu như Luật tổ chức HĐND và UBND quy định chung cho Chủ tịch UBND ở các cấp đều ngang nhau thì Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định một cách cụ thể cho Chủ tịch UBND từng cấp, từng vùng có nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp để phát huy và đề cao trách nhiệm của mình trong điều hành hoạt động của UBND. Đáng lưu ý là UBND cấp tỉnh, cấp huyện vừa thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cấp mình, vừa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền; đồng thời phân cấp, ủy quyền cho UBND cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cấp mình và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do UBND cấp trên phân cấp, ủy quyền.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016 (thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 142 về điều khoản chuyển tiếp thì từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành cho đến khi bầu ra HĐND nhiệm kỳ 2016 - 2021, HĐND, UBND tại các đơn vị hành chính tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND.Chấm dứt việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội kể từ ngày 01/01/2016. UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND, Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho đến khi bầu ra chính quyền địa phương ở huyện, quận, phường theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương./.
0 Comments