Câu 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, gắn
liền với Chủ nghĩa xã hội.
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÍNH TẤT YẾU CỦA ĐỘC LẬP
DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Đòi hỏi khách quan của cách mạng
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
1.1.1. Thực dân Pháp xâm lược nước ta từ
cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
* Chính sách bảo thủ, phản động của nhà
Nguyễn:
+
Về đối nội: nhà Nguyễn cự tuyệt
mọi đề án cải cách, đàn áp những ai dám kiến nghị cải cách; ra sức tăng cường
đàn áp, bóc lột nhân dân, khủng bố các phong trào của quần chúng, dập tắt các
cuộc khởi nghĩa của nông dân trong biển máu.
+
Về đối ngoại: Ra sức đẩy mạnh xâm
lược các nước láng giềng (Lào, Cao Miên); thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, “đóng cửa” tuyệt
giao với các nước phương Tây; chủ trương cấm đạo, giết giáo sĩ làm cho sự khủng
hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII ngày càng thêm trầm
trọng.
* Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam:
-
Tư bản Pháp lấy cớ trả thù việc triều đình Huế không tiếp nhận quốc thư của
Pháp do tàu chiến Catina đem đến hồi tháng 9/1856, cho là “làm nhục quốc kỳ Pháp”, chúng còn lấy cớ “bênh vực đạo”, “truyền bá
văn minh công giáo” để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận công giáo ở Pháp và
Việt Nam. Tháng 7/1857, Napôlêông III quyết định can thiệt vũ trang vào Việt
Nam.
-
Chiều ngày 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã kéo tới dàn trận tại cửa
biển Đà Nẵng. Sáng ngày 1/9/1858, thực dân Pháp cho tàu chiến bắn đại bác lên
các đồn Điện Hải, An Hải, cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, chính thức xâm
lược Việt Nam.
→
Quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp là
lâu dài với mục đích nhất quán của việc bành trướng, xâm chiếm thị trường, hoàn
toàn không phải vì mục đích tôn giáo hay “sứ mệnh khai hóa văn minh” nào cả.
1.1.2. Phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp, đòi độc lập dân tộc của nhân dân ta và đòi hỏi mới về con đường cứu
nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
-
Theo ý thức hệ phong kiến: Phong trào Cần Vương (1885-1896), phong trào nông
dân Yên Thế (1884-1913)
-
Theo khuynh hướng dân chủ tư sản: Tiêu biểu có phong trào Đông Du (1906-1908), Đông Kinh Nghĩa Thục (1906), phong trào
Duy Tân (1904), Việt Nam Quang phục Hội (1912), Việt Nam Quốc dân Đảng
(1927),…
→Phong
trào yêu nước Việt Nam lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào khủng
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra một đòi hỏi khách
quan phải có con đường cứu nước mới, tạo ra sức mạnh mới của dân tộc đủ sức
chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp, giành lại độc lập hoàn toàn cho dân
tộc.
1.2. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu kinh
nghiệm cách mạng thế giới
1.2.1. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu kinh
nghiệm các cuộc cách mạng tư sản
-
Nghiên cứu cách mạng tư sản Mỹ (1776), Người kết luận: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông
vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là
cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”.
-
Với cách mạng tư sản Pháp (1789), Người nhận định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.
→
Kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản không đáp ứng được hai mục tiêu mà
Nguyễn Ái Quốc ấp ủ, đó là độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân mình.
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định:
“chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao
cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn
ít người. Thế mới khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
1.2.2. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu Cách
mạng Tháng Mười Nga
-
Nghiên cứu cách mạng tháng Mười Nga (1917), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga
là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp kheo khoang bên An Nam”.
→
Từ kinh nghiệm cách mạng vô sản thế giới, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Việt Nam
muốn có độc lập, tự do phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, “cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất,… phải theo chủ nghĩa Mã Khắc
Tư và Lênin”.
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho
cách mạng Việt Nam
1.3.1. Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước
trở thành người cộng sản
-
Ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước.
-
Từ năm 1911 đến 1919, Người đi qua nhiều nước, làm nhiều nghề để kiếm sống
nhưng lòng vẫn luôn nung nấu một hoài bão là làm sao tìm được con đường cứu
nước, cứu dân.
-
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp - chính đảng lớn nhất ở Pháp lúc
bấy giờ, có chính sách tiến bộ ủng hộ phong trào đấu tranh ở thuộc địa. Tại
đây, Người đã tham gia sáng lập “Hội
những người Việt Nam yêu nước”, sau đó xuất bản tờ báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp.
-
Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vécxây “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam” đòi chính phủ Pháp phải thừa
nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc
Việt Nam.
-
Tháng 3/1919, V.I.Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Từ đó, Nguyễn
Ái Quốc đã tham gia vào tổ chức nghiên cứu Quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp.
-
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của V.I.Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”, “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế thứ ba: “Trên thế giới
bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
-
Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái
Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp, đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt thay đổi về
chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người: từ người yêu nước trở thành người cộng
sản. Sự kiện đó mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn
phát triển mới, “giai đoạn gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi
theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin” (Lê Duẩn).
→
Công lao to lớn đầu tiên của Người là xác định con đường cứu nước đúng cho nhân
dân Việt Nam, giải quyết sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối giải phóng dân
tộc.
1.3.2. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin
-
Tư tưởng cách mạng không ngừng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu và vận dụng sáng
tạo lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin: Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng về đường
lối chính trị, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã kết hợp được
hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. Trong“Cương
lĩnh Chính trị” (2/1930) của Đảng Cộng sản Việt Nam, nêu rõ: Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, nghĩa là làm cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; giữa hai giai đoạn đó không
có bức tường nào ngăn cách: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc
cho độc lập dân tộc.
2. TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc
2.1.1. Độc lập dân tộc phải là nền độc
lập thật sự
-
Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc độc lập thật sự tức là các quyền dân tộc cơ bản
phải được đảm bảo như độc lập - chủ quyền - thống nhất - toàn vẹn lãnh thổ.
Người khẳng định: Việt Nam độc lập phải trên nguyên tắc nước Việt Nam của người
Việt Nam.
-
Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí
Minh, là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc
Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên to lớn đối với các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
2.1.2. Độc lập dân tộc là quyền thiêng
liêng của dân tộc
Khi
tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người trong “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ (1776),
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền”
của nước Pháp (1791), Người đã khái quát và nâng lên thành quyền của các dân
tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Mỗi công dân của một nước độc lập phải có trách nhiệm và
nghĩa vụ bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc.
2.1.3. Độc lập dân tộc phải gắn với hòa
bình
-
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có độc lập dân tộc thực sự trong một nền hòa
bình chân chính và chỉ có hòa bình mới có độc lập dân tộc.
2.1.4. Độc lập dân tộc phải đi tới tự do
hạnh phúc của nhân dân
-
Người cho rằng: “Nếu nước độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
-
Độc lập dân tộc phải được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ
của các tộc người, các miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp,
tầng lớp nhân dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài. “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống
nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êđê, Bana… đều là con dân
nước Việt, là con Rồng cháu Tiên”.
Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh.
2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội
* Khái niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ;
một xã hội dân giàu, nước mạnh, văn minh, hạnh phúc; nhà máy, xe lửa, ngân hàng
thuộc về của công; một xã hội dân chủ, công bằn; các dân tộc trong nước đều
bình đẳng, đoàn kết tương trợ lẫn nhau; đoàn kết, hữu nghị, bình đẳng với các
dân tộc trên thế giới.
2.2.1. Về đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội
-
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
-
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao động
làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối liên minh công -
nông - lao động trí óc, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động
được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
-
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức; trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em. Con người có đời sống tinh
thần tươi vui, lành mạnh và được giải phóng triệt để.
-
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng; không còn áp bức giai cấp, áp bức xã hội; thực
hiện công bằng xã hội. Tôn trọng độc lập chủ quyền và đoàn kết, hòa bình, hữu
nghị với các dân tộc trên thế giới.
→Theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không phải là một mô hình đã hoàn chỉnh, một công
thức bất biến, nên xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều
kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách
sáng tạo, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc.
2.2.2. Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi được
nhận thức để đạt tới trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ chí Minh, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
- Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ do
nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu
bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở
thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Từ nông nghiệp đi lên chủ
nghĩa xã hội thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa.
- Về văn hóa: Phát triển văn hóa là mục
tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội, thậm chí cần đi trước để dọn đường cho
cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải có văn hóa làm gốc, công nhân và
nông dân phải biết văn hóa.
- Về quan hệ xã hội: Xây dựng cho được mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Hồ Chí Minh căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Thực hiện công bằng xã hội là tạo ra động lực cho chủ nghĩa
xã hội. Và, để tạo động lực cho chủ nghĩa xã hội, còn cần phải sử dụng vai trò
điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
2.2.3. Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng
cố, giữ vững độc lập dân tộc
-
Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc
lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân
chính cho người lao động.
-
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân
lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con
người toàn diện.
-
Chủ nghĩa xã hội tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cao, văn hóa phát triển, cách
mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra các điều kiện thực hiện cuộc cách mạng về kinh tế,
văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Đây là một nhân tố căn bản để thực hiện củng cố
và giữ vững độc lập dân tộc.
-
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội dân chủ-chế độ do nhân dân là
chủ và làm chủ. Đây là chiếc chìa khóa vạn năng để nhân dân ta mở ra một xã hội
mới với sức mạnh kỳ diệu để củng cố và giữ vững độc lập dân tộc.
→ Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội
tại trên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở bảo đảm chắc chắn và bền vững nhất
cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc.
2.2.4. Những điều kiện bảo đảm cho độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.4.1. Phải xác lập, củng cố, giữ vững
và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
-
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện và chứng minh một cách khoa học sứ mệnh lịch
sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Đó là, giai cấp có sứ mệnh đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân muốn thực hiện sứ mệnh
lịch sử đó, dứt khoát phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo.
-
Khi học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định “muốn giải phóng dân tộc thành công trước
hết phải có đảng cách mệnh”. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng
với “Cương lĩnh chính trị” đúng đắn
đã xác lập vai trò lãnh đạo của một đảng mácxít-lêninnít trong cuộc đấu tranh
của nhân dân ta thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
-
Để giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn lưu ý Đảng phải định ra đường lối đúng đắn; thường xuyên
hoàn chỉnh đường lối cách mạng của mình, phải xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ
cán bộ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh.
→ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi cách mạng Việt Nam.
2.2.4.2. Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức vững chắc làm nền tảng xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc
-
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”.
Trong lực lượng đó, công nông “là gốc
cách mệnh”, “là người chủ cách mệnh”. Bước vào giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa Người đã chỉ rõ, liên minh công - nông - trí thức là gốc, là nền tảng
của cách mạng Việt Nam.
-
Trên cơ sở xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức vững chắc, làm gốc
làm nền, Người chủ trương và thực hiện đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài
mọi giai tầng, dân tộc, tôn giáo và các cá nhân trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam: “Ta đoàn kết để đấu tranh thống nhất
và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài,
có đức, có sức và có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
họ”. Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức tiêu biểu tập hợp, đoàn kết mọi
giai cấp, tầng lớp nhân dân hình
thành nên một lực lượng cách mạng to lớn nhất của toàn dân tộc, thực hiện độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.2.4.3. Thường xuyên gắn bó cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới
-
Khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, ngay từ đầu Hồ Chí Minh
đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, “cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi
khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới”.
-
Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn bó cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới. Người đã chỉ ra một trong những nguyên nhân gây ra sự suy yếu
của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập. Do đó, cần phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến
nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một
Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản”. Theo Người:
“cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách
mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
2.3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội
2.3.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực
tiếp, trước hết
-
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các quyền dân tộc cơ bản bị thủ tiêu nhân
dân Việt Nam phải sống trong cảnh nô lệ lầm than. Cả dân tộc ta mâu thuẫn với
thực dân đế quốc, đòi hỏi khách quan trước hết của cách mạng Việt Nam là chống
thực dân đế quốc và phong kiến tay sai đòi lại độc lập cho dân tộc, giải phóng
thân phận nô lệ cho nhân dân ta.
-
Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ cách mạng, xác định mục tiêu trực tiếp và cốt
yếu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc. Vì không đòi lại được độc
lập dân tộc thì quyền lợi của các bộ phận, của các giai cấp trong dân tộc đến
vạn năm cũng không đòi lại được.
→Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí
Minh, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu
cần phải giải quyết trước tiên; độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp và trước
hết của cách mạng Việt Nam.
2.3.2. Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên
chủ nghĩa xã hội
+ Trước hết, về chính trị: Xác lập và phát triển các thành tố của hệ thống
chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thành lập Mặt trận dân tộc thống
nhất và thực hiện đoàn kết toàn dân trong Mặt trận; giành chính quyền và xây
dựng một nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân, vì dân. Có tiền đề chính
trị này, khi cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa
như là sự phát triển tự nhiên, tất yếu của giai đoạn trước, không bắt đầu bằng
một cuộc cách mạng xã hội.
+ Hai là, về kinh tế: Bước đầu hình thành đường lối, chính sách kinh tế
từng bước xây dựng các cơ sở kinh tế có tính chất xã hội chủ nghĩa. Mục đích
xây dựng và phát triển kinh tế là bồi dưỡng sức dân, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất cho toàn dân, trước hết là những người lao động. Những yếu tố
kinh tế này khi đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ được tiếp nối và phát
triển toàn diện trong điều kiện mới.
+ Ba là, về văn hóa - xã hội: Đưa ra đường lối xây dựng nền văn hóa mới, nền văn
hóa cách mạng, và giải quyết những vấn đề
xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi bước vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, tiền đề này được tiếp nối và giải quyết đầy đủ trong giai
đoạn cách mạng triệt để nhất ở nước ta.
2.3.3. Chủ nghĩa xã hội là bước phát
triển tất yếu của độc lập dân tộc
-
Vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của V.I.Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu khi giành được độc
lập dân tộc. Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc nhằm làm cho“nước Nam hoàn toàn độc lập” mới chỉ
giải phóng nhân dân ta thoát khỏi thân phận nô lệ. Nhưng nếu nước độc lập mà
dân cứ chết đói, chết rét, không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì. Nước độc lập,
nhân dân còn phải được giải phóng triệt để về mặt xã hội, giai cấp, đói nghèo,
ngu dốt. Sự nghiệp giải phóng này là sự nghiệp của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
-
Thấm nhuần tư tưởng ấy, Đảng ta đã khẳng định “cách mạng Việt Nam là một quá trình cách mạng không ngừng từ cách mạng
dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và, trong quá trình cách
mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược,
Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi
của cách mạng nước ta” (Đại hội Đảng lần thứ XI).
3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam
-
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” là đang tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Thực hiện đổi mới, Đảng ta khẳng
định: đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ
nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
-
Đổi mới là quá trình vận dụng và phát triển, giữ vững và kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh - đó là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
-
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải
nắm vững bối cảnh mới của thế giới đang có nhiều yếu tố tác động tới quá trình
thực hiện mục tiêu này, như về:
+ Kinh tế - chính trị, cách mạng khoa học và công nghệ trên thế
giới diễn ra với nhịp độ gia tốc đưa nhân loại tới nền văn minh mới-văn minh
tin học với hai biểu hiện tiêu biểu là sự ra đời nền kinh tế tri thức và xã hội
hóa thông tin. Bởi vậy, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thế giới là tất yếu,
kinh tế thị trường mang tính toàn cầu. Chiến tranh dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
khủng bố…vẫn còn diễn ra phức tạp, gay gắt. Âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn
lật đổ ngày càng tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch chống phá Đảng và
Nhà nước ta.
+ Về văn hóa-xã hội: “xâm lăng văn hóa”
bên cạnh những tác động tích cực cũng đang còn có nhiều tiêu cực xâm nhập vào
các quốc gia, trong đó có nước ta.
Vì
vậy, độc lập dân tộc phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, chủ
quyền an ninh quốc gia, đến độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và
đạo đức xã hội
+ Về chủ nghĩa xã hội: Phải kiên định mục
tiêu lý tưởng của Đảng, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3.2. Điều kiện mới của độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay
* Thuận lợi:
-
Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng và chế độ xã
hội chủ nghĩa, ngày càng thể hiện bản lĩnh năng động, sáng tạo trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững
vàng, dày dạn kinh nghiệm, có đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo.
-
Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, góp phần đưa
xã hội loài người chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin,
từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri
thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển (như Việt Nam) có thể rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Xu thế hòa bình, toàn
cầu hóa, khu vực hóa đang tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ
đối ngoại, hợp tác và phát triển.
- Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã
nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho Đảng
ta xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước.
* Thách thức:
-
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo đang diễn ra trong bối cảnh thế
giới và khu vực diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường.
-
Trước yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đất nước hiện nay rất to lớn, nặng nề,
khó khăn, đặt ra cho Đảng phải giải quyết nhiều vấn đề trọng đại: tập trung
lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế
tri thức, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
văn hóa, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã
hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động và tích
cực hợp tác quốc tế...
-
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”,“bạo loạn lật đổ”
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta một cách điên cuồng, quyết liệt.
-
Thách thức lớn nữa là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng còn có nhiều hạn chế,
yếu kém về trình độ, năng lực, nhất là về bản lĩnh chính trị và đạo đức, lối
sống.
-
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt vẫn chưa được giải quyết tốt như thất
nghiệp, tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, nguy
cơ tụt hậu về kinh tế, tệ quan liêu, tham nhũng,… Vì vậy, việc giữ vững định
hướng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa càng trở nên có ý nghĩa quan trọng.
*
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực
hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” trong giai đoạn mới, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung
sau:
+
Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức.
+
Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
+
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+
Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, cần đặc biệt quan tâm xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại;
bảo đảm cho lực lượng vũ trang ba thứ quân luôn giác ngộ chính trị cao, có tinh
thần yêu nước nồng nàn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thực sự
là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng trở thành điều kiện tiên quyết, là nhiệm vụ then chốt của cách
mạng Việt Nam.
Trong
quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này, cần chú ý:
+ Một
là, khơi dậy và phát huy tối đa mọi tiềm năng, sức mạnh của nguồn nội
lực đất nước, nâng cao ý chí tự lực tự cường dân tộc; đồng thời phải biết tranh
thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
+ Hai
là, phải xác định rõ lộ trình, bước đi để thực hiện đường lối chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế phù hợp với năng lực, ddiiefu kiện, hoàn cảnh của
đất nước. Hội nhập phải tăng sức mạnh và làm giàu bản sắc dân tộc.
+ Ba là,
độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội, phải được thực hiện trong
suốt quá trình đổi mới, trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
+ Bốn
là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phải có nhận thức sâu
sắc rằng định hướng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn,
phù hợp với dân tộc và thời đại; phải làm rõ mục tiêu, bản chất đặc trưng, động
lực, bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết.
Đại
đoàn kết dân tộc - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của đảng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại
thành công”1. Lời dạy của Bác đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương
châm hành động để Đảng ta lãnh đạo phát huy truyền thống đoàn kết, tạo sức mạnh
tổng hợp giành thắng lợi cho cách mạng. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị để tăng cường
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất
nước tiếp tục phát triển.
Đại đoàn kết (ĐĐK) là một
truyền thống cực kỳ quý báu, sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Chính
tư tưởng đoàn kết, tinh thần yêu nước nồng nàn, đã tạo sức mạnh to lớn để ông
cha ta chiến thắng “thù trong, giặc ngoài”, bảo vệ vững chắc bờ cõi, non sông,
giữ vững sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thịnh vượng, sánh vai cùng các cường quốc, năm châu.
1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
1.1. Quan
niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
* Khái niệm
đoàn kết, đại đoàn kết:
Theo Từ điển
tiếng Việt (Trung tâm từ điển học, Nxb Giáo dục, H.1994):
- Đoàn kết là kết thành một khối thống nhất, cùng hành
động vì một mục đích chung.
- Đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi.
* Quan niệm
của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
- Trong buổi nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận
Liên-Việt toàn quốc (10/01/1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về
khái niệm đại đoàn kết như sau: “Đại đoàn
kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc
của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật
thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó
trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
- Đại đoàn kết xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng do quần chúng nhân dân tiến hành và vì lợi ích của quần chúng.
Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn
bộ đường lối chiến lược của cách mạng.
* Khái niệm
tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh:
- Tư
tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai
trò, nội dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng
nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự
nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1.2.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đại đoàn kết trong cách mạng
Việt Nam
1.2.1. Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn
của cách mạng, là một chiến lược bất di bất dịch.
- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời
mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
mạng, có thể và cần thiết có sự điều chỉnh chính sách, phương pháp đại đoàn kết.
- Đoàn kết quyết
định thành công cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế: “Đoàn kết
là lực lượng mạnh nhất”, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”, “Đoàn kết là then chốt
của thành công”, “Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con
cháu đều tốt”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công”.
1.2.2. Đại đoàn kết là nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng cách mạng
- Đảng phải cụ thể hóa
thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo sức mạnh cho cách mạng, sức mạnh đó chính là khối đại đoàn
kết dân tộc.
-
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn
là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc
chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ
mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con
người.
1.3. Nội dung đại đoàn
kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Đại
đoàn kết dân tộc
1.3.1.1. Lực
lượng đại đoàn kết dân tộc
-
Bao gồm mọi giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các giới, các lứa tuổi, các
dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, đồng bào các tôn giáo, các đảng
phái,...hợp thành khối đại đoàn kết rộng lớn, đông đảo, đa dạng.
-
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc với lực lượng nòng cốt làm nền tảng là khối liên
minh công - nông - trí thức, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.3.1.2.
Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
- Mặt trận dân tộc thống nhất là một liên minh chính
trị nhằm đoàn kết rộng rãi các tổ chức yêu nước vào một khối thống nhất, đấu
tranh vì độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tùy theo từng thời kỳ, từng giai
đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống
nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng.
Các tổ chức Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị-xã hội rộng rãi, tập
hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức
và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc
lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
- Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chú trọng xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất để tập hợp đoàn kết lực
lượng của toàn dân. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, do mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ
thể đặt ra, Đảng đã lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận thích hợp.
+ Ngày 18/11/1930, Thường vụ trung ương Đảng ra chỉ
thị thành lập Hội phản đế đồng minh.
+ Những năm 1936-1939 ra đời Mặt trận dân chủ.
+ Những năm 1939-1940 ra đời Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
+ Từ năm 1941, Việt
Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) với các tổ chức quần chúng yêu
nước là Hội cứu quốc.
+ Tháng 5/1946, thực hiện chủ trương của Đảng về mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, Hội
Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập.
+ Ngày 3/3/1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt
Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên
Việt
+ Ngày 10/9/1955, thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc, khi mới được giải phóng và
bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
+ Ngày 20/12/1960, ở miền Nam thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam.
+ Ngày 20/4/1968 thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam.
+ Tháng 2/1977, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất, các tổ chức mặt trận của hai miền thống nhất thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hoạt động
trong thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đến ngày nay.
- Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức
cách mạng to lớn, Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải xây dựng Mặt trận theo những
nguyên tắc cơ bản sau:
+ Một
là, Mặt trận phải lấy liên minh công-nông-trí thức làm nền tảng. Liên
minh công-nông-trí thức có vững, Mặt trận mới bền vững, lâu dài được. Đây là
yếu tố cần. Còn yếu tố đủ là Mặt trận phải đoàn kết với các tầng lớp yêu nước
khác để mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết.
+ Hai
là, Mặt trận do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt
trận bằng việc đề ra chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ,
từng giai đoạn của cuộc cách mạng; bằng phương pháp tuyên truyền, vận động,
giáo dục, thuyết phục; thông qua tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên. Đảng
phải thể hiện sự lãnh đạo đó theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng tổ chức
và xây dựng Mặt trận phù hợp với từng thời kỳ.
1.3.1.3. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
- Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở
thống nhất những lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai
tầng trong xã hội.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm
kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất
những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của
đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho
việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối
cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân
chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là mẫu số chung, là ngọn cờ đoàn kết, là sức
mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng
là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương
pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
Đối
với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn
liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người khẳng định rằng: Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
tự do. Dân tộc Việt Nam có quyền được hưởng tự do, độc lập. Người cho rằng:
nước được độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì nền độc lập ấy cũng
không có nghĩa lý gì. Chân lý “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do” là chìa khóa vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của
chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
- Thứ hai, tin vào dân, dựa
vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
+
Tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh vừa là sự kế
thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “dân là gốc của
nước”, vừa là sự quán triệt sâu sắc trong nhận thức, tình cảm và hành động
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
+
Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống và chiến đấu vì nhân dân là nguyên tắc tối
cao xuyên suốt trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn cách mạng của Hồ Chí
Minh.
+ Nguyên tắc tin vào dân, dựa
vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
•
Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết.
•
Dân là chủ thể của đại đoàn kết.
•
Dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối địa đoàn kết, quyết định thắng
lợi của cách mạng.
•
Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị.
- Thứ ba, đại đoàn kết một
cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ.
+
Đại đoàn kết một cách tự giác là một
tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức và có lãnh
đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà
yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế
giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu
tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh.
+
Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết trên lập trường vô sản,
theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là một tập hợp có tổ chức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công-nông-trí thức.
+ Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết
là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây
dựng nước nhà”. Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có
vững nhà mới chắc, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi.
Điểm nổi trội, sức mạnh bất diệt, nguyên tắc bất di
bất dịch của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là đại đoàn kết phải xây dựng
trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công-nông-trí thức làm
nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và
đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
- Thứ tư, đại đoàn kết phải
chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác
biệt; mặt khác, Người cho rằng trong đoàn kết phải có đấu tranh, đấu tranh để
tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết
xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt,
khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng
phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân”. Do đó, trong đoàn kết phải thực hiện tự
phê bình và phê bình, để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy những ưu
điểm, củng cố nội bộ, củng cố tổ chức. Tự phê bình và phê bình phải chân thành,
thẳng thắn, thân ái, phải có lý, có tình, phê bình việc chứ không phê bình
người.
1.3.1.4.
Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
- Phương
pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục
Tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục nhằm
thức tỉnh mọi người, để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể
trong Mặt trận. Người yêu cầu:
+ Nội dung
tuyên truyền phải vừa đáp ứng những nguyện vọng, quyền lợi cơ bản của mỗi
dân tộc, mỗi giai cấp, vừa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tùy
theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng đề ra những
mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử, những
khát vọng cháy bỏng của nhân dân. Đồng thời, Đảng còn phải đề ra nội dung tuyên
truyền, vận động sát hợp với từng đối tượng, từng cộng đồng xã hội.
+ Hình thức
tuyên truyền phải ngắn gọn, dễ hiểu, vừa tri thức, vừa bình dân, vừa sâu
sắc, vừa giản dị; phải bằng ngôn ngữ thông thường gần gũi với mọi người dân
Việt Nam. Nói để ai cũng hiểu được, nhớ được và làm được. Muốn quần chúng tin
theo, người cán bộ tuyên truyền phải nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, phải đi sâu, đi sát đồng bào, hiểu được hoàn cảnh và nguyện vọng của
đồng bào; luôn là tấm gương về đoàn kết, phải mẫu mực từ lời nói đến việc làm,
có sức lôi cuốn, thu phục quần chúng bởi tình cảm trong sáng và tinh thần tận
tụy vì nước, vì dân.
- Phương pháp
tổ chức: Muốn xây dựng, củng cố đại đoàn kết, theo Hồ Chí Minh cần phải có
phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, củng cố, phát triển
hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
+ Là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết, Hồ Chí Minh
yêu cầu Đảng phải đề ra được đường lối đại đoàn kết đúng đắn; Đảng phải đoàn
kết, thống nhất cả trong tư tưởng lẫn hành động, từ trên xuống dưới; Đảng phải
là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, tự giác; đảng viên là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân, phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
+ Để Nhà nước đề ra chính sách thực hiện đại đoàn kết
đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với thực tiễn, Hồ Chí Minh yêu cầu:
phải xây dựng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân; phải không ngừng cải
cách bộ máy hành chính và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cán bộ công chức nhà
nước phải tận tụy, trung thành phục vụ nhân dân, phải là “công bộc của dân”.
+ Mặt trận là tổ chức rộng rãi nhất, liên quan trực
tiếp việc tập hợp, đoàn kết dân tộc. Do vậy, Mặt trận càng rộng rãi, chặt chẽ,
thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn kết càng mạnh mẽ, bền chặt bấy nhiêu.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là sợi dây gắn kết Đảng với
dân, việc xây dựng và củng cố Mặt trận và các đoàn thể là vấn đề chiến lược của
cách mạng. Vì vậy, các tổ chức, đoàn thể nhân dân phải được xây dựng từ thấp
đến cao phù hợp với trình độ và yêu cầu của quần chúng. Hình thức tổ chức quần
chúng phải hết sức đa dạng; cương lĩnh, chương trình hành động phải thiết thực,
ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng; nội dung hoạt động phải phong phú, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân; mỗi cán bộ “phải
óc nghĩ, chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm”, đặt công tác dân
vận lên hàng đầu, phải yêu dân, kính trọng nhân dân, học tập nhân dân.
- Phương
pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ.
Phương pháp đại
đoàn kết Hồ Chí Minh chính là phương pháp xử lý khoa học mối tương quan ba
chiều giữa: cách mạng-trung gian-phản cách mạng, nhằm mở rộng đến mức cao nhất
trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức thấp nhất trận tuyến thù địch.
+ Đối với lực
lượng cách mạng: Khai thác, phát huy những điểm thống nhất, tương đồng; hạn
chế, khắc phục tiến tới xóa bỏ dần những khác biệt về mục tiêu, lợi ích. Sự
đoàn kết, thống nhất của lực lượng cách mạng là điều kiện tiên quyết giúp cho
cách mạng thành công.
+ Đối với lực
lượng trung gian: Xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức
dân tộc, tinh thần yêu nước; chân thành hợp tác, trọng dụng những người có tài,
cso đức ra giúp dân, giúp nước.
+ Đối với lực
lượng phản cách mạng: Chủ động, kiên quyết tiêu diệt trên cơ sở phân hóa cô
lập chúng cao độ; chú ý khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, lôi kéo những
người có thể tranh thủ được; tạm hòa hoãn có nguyên tắc với những lực lượng, bộ
phận có thể hòa hoãn được.
1.3.2. Đại
đoàn kết quốc tế
1.3.2.1. Lực
lượng và hình thức đại đoàn kết quốc tế
* Lực lượng
đại đoàn kết quốc tế:
Đối tượng đoàn kết quốc tế được Hồ Chí Minh xác định
rất rõ ràng, đó là các lực lượng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
phong trào giải phóng dân tộc; phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế
giới.
* Hình thức đại
đoàn kết quốc tế:
+ Đối với các
nước láng giềng có chung kẻ thù, chung nguyện vọng là độc lập, tự do, Hồ
Chí Minh xây dựng Liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương (Việt Nam-Lào-Campuchia),
lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt-Miên-Lào trong kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
+ Đối với các nước xã hội chủ nghĩa: Sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh thời đại.
Các nước xã hội chủ nghĩa đã có vai trò to lớn trong việc ủng hộ và giúp đỡ
phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân, của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Ngược lại, phong trào giải phóng dân tộc cùng với phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản đã góp
phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, cũng tức là góp phần tích cực vào việc bảo
vệ các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ
trương phát huy sức mạnh thời đại là huy động sức mạnh của các trào lưu cách
mạng trên thế giới phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Để tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ đôi với cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, vì
hòa bình, chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, trên tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”, “rằng đây
bốn biển một nhà. Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”, Hồ Chí Minh xây dựng
Liên minh hữu nghị hợp tác và tương trợ với các nước.
+ Đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình, công
lý trên thế giới: Hồ Chí Minh cho rằng, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại chính là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế vô sản, là phải xây dựng được khối liên minh chiến đấu giữa vô sản ở chính
quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến công chủ nghĩa đế quốc ở
cả hai đầu. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài trên báo “Người cùng khổ” (Le Paria) và báo “Nhân đạo” (L'Humanité) để truyền bá tư tưởng của mình trong giai
cấp vô sản và nhân dân lao động khác cả ở chính quốc và cả thuộc địa. Người đã
tranh thủ diễn đàn các đại hội của Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản Pháp, diễn đàn
các câu lạc bộ để "thức tỉnh" những người anh em ở phương Tây về
nhiệm vụ phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa; phải coi cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là “một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Từ tuyên truyền đến tổ chức, Người
tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pháp, tham gia xuất bản tờ báo
Người cùng khổ (Le Paria) – cơ quan ngôn luận của Hội liên hiệp thuộc địa. Sau khi đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người
tích cực tham gia vào việc thành lập Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sát cánh chiến đấu bên cạnh những
người cộng sản và nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”.
Hồ Chí Minh xây dựng Mặt trận đoàn kết với phong trào
hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới như Mặt trận đoàn kết giữa nhân dân
việt Nam với nhân dân Á-Phi, Mỹ Latinh, Mặt trận thống nhất phản đế giữa nhân
dân Việt-Mỹ,…).
1.3.2.2.
Nguyên tắc và phương pháp đại đoàn kết quốc tế
* Nguyên tắc
đại đoàn kết quốc tế: Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết quốc tế phải
dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
* Phương pháp
đại đoàn kết quốc tế: Phương pháp
đại đoàn kết quốc tế là xây dựng tình đoàn kết hữu nghị hợp tác, cùng phát
triển với các dân tộc và giai cấp vô sản các nước trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người đặc biệt coi trọng và xây dựng
tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng anh em trên tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, “vừa là đồng chí
vừa là anh em”.
Thực
hiện quan điểm đối ngoại hòa bình, hữu nghị, Hồ Chí Minh đã thể hiện là một nhà
ngoại giao mẫu mực, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Phong cách
đối ngoại của Hồ Chí Minh là phong cách ứng xử văn hóa, mà hạt nhân là ứng xử
có lý, có tình. Hồ Chí Minh chủ trương giương cao ngọn cờ hòa bình, đoàn kết
quốc tế, đồng thời luôn phân biệt rõ bạn, thù của cách mạng, tỉnh táo với mọi
âm mưu xấu xa của các thế lực phản động quốc tế, trân trọng mọi sự giúp đỡ, hợp
tác chân thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự chia rẽ, xâm lược.
2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
2.1. Các
nhân tố tác động đến khối đại đoàn kết
2.1.1. Tình
hình thế giới
Bước vào thời kỳ đổi mới, tình hình thế giới có nhiều
biến động, phức tạp và khó lường:
- Hòa bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến
tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều nơi.
- Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh
năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,…tiếp
tục có những diễn biến phức tạp, không một quốc gia riêng rẽ nào có thể tự giải
quyết nếu không có sự hợp tác.
- Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học-công nghệ phát
triển mạnh mẽ, thúc đấy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri
thức, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia.
- Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn
tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất
lượng cao,…giữa các nước diễn ra ngày càng gay gắt.
- Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục có
những bước tiến mới.
- Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc tiếp tục có những
diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á
vẫn tồn tại nhiều nhân tố mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo diễn ra
ngày càng gay gắt.
2.1.2. Tình
hình trong nước
- Thuận lợi:
+ Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định:
+ Những hạn chế, yếu kém trong xây dựng và phát triển
kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị dần được khắc phục.
+ Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, đoàn
kết, nhân nghĩa.
- Khó khăn:
+ Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng,
tình trạng về suy thoái đạo đức lối sống của một phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân.
+ Các thế lực thù địch, phản động không ngừng tìm mọi
cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình”, “bạo loạn lật đổ” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chúng còn ra sức phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân
quyền”, “ dân tộc”, “tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta.
+ Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
có diễn biến phức tạp.
2.2. Thực
trạng của khối đại đoàn kết trong thời kỳ đổi mới
2.2.1. Những
thành tựu
Thực hiện công cuộc đổi mới 28 năm qua, Đảng ta luôn
đề cao vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị-xã hội. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị-xã hội từ Trung ương đến địa phương, cơ sở đã có những
đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng:
- Công tác vận động, tập hợp,
đoàn kết các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước
được cải thiện; tình hình chính trị-xã hội ổn định; vị thế của nước ta không
ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
- Phát huy và thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của
nhân dân. Tinh thần năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị-xã hội đã góp phần hình thành phong trào rộng lớn và đa dạng của các
tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội đã đề xuất
nhiều chủ trương, chính sách với Đảng, Nhà nước liên quan tới lợi ích chính
đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
- Đảng tăng cường lãnh đạo, cùng với sự phối hợp
kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân
dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, tập thể và cá nhân cán bộ,
đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về trách nhiệm đối với công việc và thái độ phục vụ nhân dân.
Nhà nước đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh
niên, Luật Bình đẳng giới, Pháp lệnh Cựu chiến binh, tạo điều kiện để Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ,
quyền và nghĩa vụ của đoàn viên, hội viên.
- Những đổi mới trong nội dung, phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội đã đóng góp
tích cực vào thành tựu chung của đất nước, góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận
và sự đòi hỏi phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của
hệ thống chính trị ở nước ta.
- Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng
hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn
định chính trị xã hội của đất nước.
*Nguyên
nhân:
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, thương nòi,
đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước, luôn luôn gắn bó với Đảng, với
cách mạng.
-
Đảng có đường lối đúng đắn về đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới và
ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò, vị trí và sự cần thiết phải đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc
vận động, tập hợp quần chúng thực hiện nhiệm vụ phát triển đất nước. Đảng ta
vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, vừa tôn trọng tính độc lập, sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã
hội, phát huy dân chủ để tìm tòi, đổi mới hình thức vận động, tập hợp quần chúng
phù hợp với điều kiện, tình hình mới.
- Có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên và giữa Mặt trận Tổ quốc với chính
quyền được thực hiện thường xuyên, nền nếp và mở rộng trên nhiều lĩnh vực, đã
tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc phát huy tốt hơn vai trò nòng cốt trong việc
tập hợp các lực lượng trong khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần giữ vững ổn
định chính trị-xã hội, củng cố nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức
mạnh của hệ thống chính trị nước ta.
- Phân công và giới thiệu cán bộ của Đảng để Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội bầu giữ các chức vụ lãnh đạo chủ
chốt trong các tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; phát huy được vai
trò chủ động tham mưu và hoạt động tích cực trong phong trào thi đua yêu nước
của quần chúng nhân dân.
- Tổ chức đảng và chính quyền các cấp có bước chuyển
biến về công tác dân vận.
2.2.2. Những
hạn chế
-
Một số nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chưa phù hợp với cơ chế mới, thiếu tính cụ thể, chưa đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng và quyền lợi chính đáng của đoàn viên, hội viên. Công tác tuyên truyền,
vận động chưa có sức hấp dẫn đối với nhiều đối tượng trong xã hội; chưa thật sự
bám sát các chức năng chính yếu của mình, còn thiên về các hoạt động mang tính
hình thức, dàn trải, hiệu quả thấp.
-
Công tác xây dựng và phát triển tổ chức của các đoàn thể còn nhiều hạn chế,
nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài;
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo. Mặt
trận và các đoàn thể chưa nắm chắc tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc của
quần chúng nhân dân; tình hình khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện đông người vẫn còn
diễn ra phức tạp ở nhiều nơi. Tình trạng công nhân lao động đình công không
đúng với quy định của pháp luật trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn xẩy ra; việc thành lập tổ chức đảng,
đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh còn rất hạn chế. Tình trạng hành chính hoá, bệnh thành tích trong
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp vẫn còn diễn ra khá phổ
biến ở nhiều nơi, chậm được khắc phục.
-
Chế độ hiệp thương dân chủ trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa
được nghiên cứu, cụ thể hoá để thực hiện thường xuyên, nền nếp; nguyên tắc đồng
thuận xã hội chưa được thực hiện khéo léo, nhuần nhuyễn. Công tác phối hợp giữa
Mặt trận Tổ quốc với các đoàn thể và giữa các đoàn thể với nhau chưa thật chặt
chẽ, thiếu đồng bộ; chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Vai trò là trung tâm, phối
hợp hành động của Mặt trận Tổ quốc với các đoàn thể chính trị - xã hội và các
tổ chức thành viên chưa được thể hiện rõ, đồng bộ. Một số tổ chức thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động còn hạn chế, chưa phát huy được vai
trò, vị trí của mình trong các hoạt động xã hội để tập hợp đoàn viên, hội viên
và quần chúng nhân dân.
-
Thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị-xã hội đối với các hoạt động của chính quyền nhà nước và
đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế. Công tác giám sát, tham gia xây dựng
luật pháp, chính sách và giáo dục pháp luật, đạo đức lối sống cho đoàn viên,
hội viên chưa đáp ứng yêu cầu, chưa theo kịp với sự chuyển biến của công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Chế độ, chính sách và điều kiện, kinh phí hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội còn nhiều khó khăn,
nhất là ở cấp cơ sở, vùng cao, vùng
sâu, miền núi, biên giới, hải đảo. Tình trạng phổ biến và kéo dài việc
khoán kinh phí gắn liền với biên chế không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và
đặc điểm hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã
hội trong công tác vận động quần chúng chậm được sửa đổi.
* Nguyên
nhân:
-
Sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự chủ động phối hợp và tạo điều kiện
của chính quyền các cấp để Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các đoàn thể chính
trị-xã hội hoạt động có hiệu quả còn hạn chế. Một số cấp ủy đảng chưa quan tâm
lãnh đạo đầy đủ đến đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể và quy chế phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn
thể trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, địa
phương, cơ sở.
-
Một số chính sách của Nhà nước ban hành chưa đồng bộ, hướng dẫn chưa kịp thời,
tác động không thuận tới sản xuất, kinh doanh và đời sống, làm cho đoàn viên,
hội viên và nhân dân bất bình, ảnh hưởng đến công tác vận động quần chúng.
-
Việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung và nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội nói riêng, trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế là vấn đề mới mẻ, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm, vừa rút
kinh nghiệm, do đó nhận thức còn khác nhau, chưa có được những giải pháp phù
hợp.
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể các cấp ở một số phong trào, cuộc vận động
lớn, cho nên có sự trùng lắp, chồng chéo, hiệu quả thấp. Còn nhiều cơ quan chính quyền nhà nước, cán bộ, công
chức coi Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như một tổ chức phụ thuộc và thiếu sự
phối hợp trong tổ chức hoạt động phong trào quần chúng.
- Tổ chức bộ máy, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể còn nhiều bất cập. Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện,
tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng người có đức, có tài, có phẩm chất và năng
lực, có uy tín để làm công tác vận động quần chúng. Trình độ, năng lực, kỹ năng vận động, tập hợp quần
chúng của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể còn nhiều hạn chế, nhất là
ở cơ sở. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể ở các
trường Trung ương còn nhiều hạn chế; nội dung, chương trình giảng dạy chưa gắn
được giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và thực tiễn phong trào cách mạng của
quần chúng. Việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và chính sách đối với
cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội còn nhiều hạn chế.
- Một số cấp ủy đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác
dân vận; còn mất đoàn kết; cán bộ, đảng viên còn thiếu gương mẫu; sự tha hóa,
biến chất làm giảm sút vai trò hạt nhân lãnh đạo và đoàn kết của tổ chức đảng.
- Sự suy thoái về đạo đức lối sống, ý thức công dân, ý
thức chấp hành kỷ cương, chính sách pháp luật của một bộ phận nhân dân, cán bộ,
đảng viên còn yếu kém.
- Các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đoàn kết
của nhân dân ta. Luôn kích động những vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo”…để gây ly tán, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
2.3. Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
trong điều kiện hiện nay
2.3.1. Mục
tiêu đại đoàn kết
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, giữ vững độc lập, thống nhất của
Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.3.2. Quan
điểm chỉ đạo đại đoàn kết
- Một là,
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Hai là,
lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau,cùng hướng tới tương lai.
- Ba là,
bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với
giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng,
nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường
xây dựng đất nước.
- Bốn là,
đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức,
trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu.
- Năm là,
thực hiện nhất quá đường lối đoàn kết quốc tế độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm:
Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn
đấu vì hòa bình phát triển.
2.3.3.
Nguyên tắc đại đoàn kết
- Thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên cơ sở giải quyết
hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
- Thứ hai, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc
để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
- Thứ ba, tin dân, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải
quyết các khó khăn vướng mắc của nhân dân; làm tốt công tác dân vận.
- Thứ tư, đoàn kết quốc tế phải trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; hợp tác bình đẳng cùng có lợi.
2.3.4. Biện
pháp đại đoàn kết
2.3.4.1. Xây
dựng những chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
* Những
chính sách phát triển kinh tế-xã hội:
- Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, lấy phát triển nền
kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ trung tâm; gắn tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ công bằng xã hội; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển văn hóa, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa
học-công nghệ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương; đẩy mạnh đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi; thực hiện
phương châm ‘dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
* Những
chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội:
- Đối với
giai cấp công nhân: Đảng chủ trương
xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng và chất
lượng để ngang tầm nhiệm vụ cách mạng và giữ vững vai trò lãnh đạo. Trong thời
kỳ đổi mới, đã ban hành Luật Công đoàn, Luật Lao động nhằm bảo về quyền lợi
chính đáng của người lao động và nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động để đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Đối với giai
cấp nông dân: Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn mới, thực hiện tốt chính sách ruộng
đất. Đây là quyền lợi chính đáng cơ bản của nông dân. Đảng đã ban hành nhiều
chính sách như kinh tế hộ gia đình, giao quyề sử dụng đất lâu dài cho nông dân,
hỗ trợ khuyến khích nông dân áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất,
giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, có
chính sách bảo hộ sản xuất cho nông dân. Thực hiện có hiệu quả công cuộc xóa
đói, giảm nghèo.
- Đối với đội
ngũ trí thức: Đảng ta có chủ trương đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đúng đắn,
tạo điều kiện cho họ tiếp nhận những thành tựu mới về khoa học-kỹ thuật, văn
hóa, nâng cao kiến thức, trình độ chính trị, khuyến khích và tôn trọng tự do
sáng tạo, phát triển tài năng trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến tri thức.
- Đối với các
giai cấp, tầng lớp xã hội khác: Đảng bảo đảm thực hiện nguyên tắc: quyền
lợi và nghĩa vụ đi đôi với nhau, bình đẳng và dân chủ trước pháp luật.
+ Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh
nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và
trách nhiệm xã hội cao, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
+ Làm tốt công tác giáo dục ho thế hệ trẻ, khuyến
khích cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm
chủ khoa học, công nghệ hiện đại. hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh
vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
+ Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh
thần của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình.
+ Phát huy truyền thống bộ đội cụ Hồ của cựu chiến
binh, tích cự tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa. Động viên cựu chiến binh tham gia vào các hoạt động của xã hội.
+ Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho người cao tuổi.
+ Thực hiện bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Chống các âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
dân tộc.
+ Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo,
tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh
chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc.
+ Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, giúp đỡ
họ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết, tương trợ, giữ gìn bản sắc
văn hóa và truyền thống dân tộc. Sẵn sang tạo điều kiện cho kiều bào ở nước
ngoài đem hết tài năng, trí tuệ, tiền của để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.3.4.2. Xây
dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo
khối đại đoàn kết dân tộc
- Thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTW
Đảng Khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Củng cố sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong từng tổ chức Đảng. Đảng viên tiên
phong gương mẫu, làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân, động viên nhân dân
tham gia xây dựng Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, để phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Kết hợp thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ ttrong Đảng và chế đọ hiệp thương dân chủ trong tổ chức
Mặt trận Tổ quốc.
- Chăm lo, đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
2.3.4.3.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền trong việc thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc
- Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cụ thể hóa phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong tất các loại hình tổ chức và đơn vị
cơ sở thuộc các cấp, các ngành, các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Khăc phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ
dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ
phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng và nhanh chóng các công việc có
quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân, có cơ chế phối hợp và đảm bảo các điều
kiện cần thiết để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân làm tốt vai trò
giám sát đối với các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền
trong sạch, vững mạnh.
- Xây dựng phong cách và phương thức công tác của cán
bộ, công chức, viên chức phù hợp với đạo đức cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc.
2.3.4.4. Mở
rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Trong lãnh đạo cách mạng, điều quyết định hàng đầu của
Đảng ta là phải xác định đường lối chiến lược đúng đắn. Trong nội dung đường
lối, việc xác định lực lượng cách mạng giữ vai trò quan trọng trong sự thành
bại của cách mạng. Đảng ta luôn luôn nhận thức được và thực hiện quá trình lãnh
đạo cách mạng về vấn đề đoàn kết dân tộc, xây dựng Mặt trận, coi đó là công tác
thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình vận động cách mạng. Muốn đoàn kết
được mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân, Đảng và Mặt trận cần phải đánh giá đúng
đắn các giai cấp, tầng lớp, khơi dậy tinh thần yêu nước, tính tích cực cách
mạng, phấn đấu vì mục tiêu chung của cách mạng và dân tộc, đồng thời bảo đảm
lợi ích chính đáng của mọi giai cấp, tầng lớp, cá nhân trong xã hội. Mặt trận
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị, là chỗ
dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước.
- Để mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân
dân, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân cần thực hiện tốt một số biện pháp:
+ Mở rộng Mặt trận Tổ quốc, đa dạng hóa các hình thức
tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể
nhân dân, các tổ chức xã hội-nghề nghiệp.
+ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phối hợp
với các cơ quan nhà nước hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân,
nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; vận động
và giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc trong cộng đồng dân cư.
2.3.4.5.
Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây
dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
- Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền. Giáo dục ý
thức chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân,
xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức cộng đồng trách nhiệm.
- Phát huy vai trò tích cực của các phương tiện thông
tin đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, coi trọng lực lượng tuyên
truyền miệng nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số và vùng đồng bào có đạo, vùng
sâu, vùng xa.
- Phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước.
Thực hiện các cuộc vận động toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
2.3.4.6. Giữ
vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào
chiều sâu, ổn định, bền vững. Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
- Củng cố, tăng cường quan hệ với các Đảng Cộng sản,
đảng công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến
bộ trên thế giới.
- Phát triển quan hệ đối ngoại nhân dân theo phương
châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn
và hoạt động của nhân dân thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hòa
bình, phát triển, công bằng, bền vững, dân chủ và tiến bộ.
- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con
người, kiên quyết làm thất bại các âm mưu và hành động xuyên tạc, lợi dụng vấn
đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc
nội bộ, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính
trị của Việt Nam.
Câu 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
1/CƠ
SỞ VÀ QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN Ở VIỆT NAM
1.1/Cơ sở lựa chọn một
hình thức Nhà nước phù hợp với thực tế Việt Nam
1.1.1/ Cơ sở lý luận hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân
- Truyền thống tốt đẹp của
dân tộc
+ Chủ nghĩa yêu nước
+ Truyền thống tổ chức,
xây dựng nhà nước, pháp luật của dân tộc Việt Nam.
+
Truyền thống văn hóa trong tổ chức đời sống cộng đồng, các giá trị dân chủ lâu
đời, cách thức quản lý nhà nước của dân tộc.
-
Các giá trị, tinh hoa văn hóa nhân loại trong lĩnh vực nhà nước, quản lý xã hội
và luật pháp
+ Quan điểm lý luận của
Nho giáo về trị nước
♦ Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ
♦ Dùng đức để làm chính sự
♦ Phải coi trọng vấn đề dưỡng dân và
giáo dân
+Lý luận của các nhà khai
sáng Pháp
+Lý
luận của các nhà lập pháp Mỹ về nhà nước và pháp luật
-
Học thuyết Mác – Lênin về nhà nước,
nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con
người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn
giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không
phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước”
(C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, tr.
350).
Lê nin cho rằng: “Nếu quyền lực chính trị
nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì
mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng
nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai
cấp có quyền lợi khác quyền lợi của đa số thì việc điều khiển công việc quốc
gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa
đến chỗ đàn áp đa số ấy” ( V.I.Lênin: Toàn tập, t. 43, Nxb.Tiến bộ, M.1978,
tr.52).
→ Chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về
đa số.
1.1.2/ Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
- Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
đã khảo sát chế độ nhà nước ở Anh, Pháp, Mỹ
→ chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người, vẫn
tồn tại mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản.
“Tiếng là Cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần
rồi, mà nay công nông Pháp hãy còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát
khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy” ( Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr
296.)
-
Năm 1923, khi đến Liên Xô, Người đã khảo sát kỹ mô hình Nhà nước kiểu mới:
“Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ
chức ra Chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng
cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra
sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”( Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr
303-304.)
1.2/ Lựa chọn, thiết lập và
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
1.2.1/ Quá trình hình thành, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân
1.2.1.1/ Giai đoạn trước 1945:
-Năm 1919, trong “Yêu sách tám điểm”, Hồ Chí Minh
đã đề xuất thực hiện các quyền tự do, dân chủ, các quyền con người ở Việt Nam.
1.Tổng ân xá cho tất cả những
người bản xứ bị án tù chính trị;
2.Cải cách nền pháp lý ở Đông
Dương bằng cách cho người bản xứ cũng đuợc quyền đảm bảo về mặt pháp luật như
người Âu châu, xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt làm công cụ để khủng bố và
áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3.
Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4.
Tự do lập hội và hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất
dương;
6.
Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh
cho người bản xứ;
7.
Thay chế độ các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8.
Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại Nghị
viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
-Năm
1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, về phương diện nhà nước, Hồ Chí Minh đã
đề xuất quan niệm về một nhà nước của số đông, thực hiện một nền dân chủ triệt
để theo mô hình kiểu nhà nước Xô Viết phục vụ cho lợi ích chính đáng của nhân
dân.
“Chúng
ta đã hy sinh làm cách mạng, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hưởng hạnh phúc”.(
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.292.).
-Trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930 do Hồ Chí Minh soạn thảo đã chỉ
rõ nội dung chính trị của cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam là thiết lập Nhà
nước, Chính phủ công- nông- binh.
“Về chính trị:
-Đánh đổ đế quốc Pháp và
bọn phong kiến
-Làm cho nước Nam hoàn
toàn độc lập
-Dựng ra chính phủ công
nông binh
-Tổ chức quân đội công
nông”
-Năm
1941, Hồ Chí Minh về nước, thành lập Mặt trận Việt Minh, chủ trì Hội nghị Trung ương
8 → tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước cơ bản được hình thành.
Hội nghị TW 8 chủ trương:“không nên nói công
nông liên hiệp và lập chính quyền Xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên
hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hoà” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, NXB CTQG,H.2000, T7, tr150)
1.2.1.2/ Giai đoạn 1945-1954:
-
Ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- nhà nước do nhân dân lao động làm chủ đầu tiên ở
Đông Nam Á.
- Ngay sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ đạo việc bầu cử ra các cơ quan tối cao của nhà nước. Đồng thời, đề nghị
Chính phủ sớm tổ chức cuộc tổng tuyển cử ở Việt Nam với chế độ phổ thông đầu
phiếu.
Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì
đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống,
giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó.
Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử
tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết.
Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu
ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của
toàn dân...
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2002, NXB CQG,
H.2002, t. 4, tr.133)
- Hồ Chí Minh chủ động chỉ đạo thành lập Ban soạn
thảo Hiến pháp và Hiến pháp đã được
thông qua vào tháng 11/1946.
1.2.1.3/ Giai đoạn 1954-1969:
-Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng bộ máy
nhà nước để đảm nhận hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng
CNXH ở miền Bắc và tiến hành CMDTCND ở miền Nam.
-Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành
Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959.
→Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới được
hình thành và phát triển trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.2.2/ Vai trò của Hồ Chí Minh
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam
-Hồ Chí Minh là người sáng lập nước Việt Nam, đứng
đầu nhà nước đó trong 24 năm và đã để lại dấu ấn sâu đậm về một phong cách lãnh
đạo Nhà nước, trở thành chuẩn mực cho các thế hệ lãnh đạo sau này.
“ Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này,
tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa” (Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002,
t 12, tr 512).
-Hồ Chí Minh đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp
lý tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta. Các cơ sở pháp lý đó là nền tảng tư
tưởng để tổ chức, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước qua các giai đoạn cách mạng của
dân tộc.
-Hồ Chí Minh là người khơi nguồn cho truyền thống
dân chủ hiện đại ở Việt Nam, làm cho dân ta được hưởng các quyền tự do, dân
chủ, hướng dẫn nhân dân làm chủ, thực hành dân chủ trong điều kiện một nước
nông nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí
thấp, từng bước quá độ dần lên CNXH.
2/ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
2.1 / Quan niệm của Hồ Chí
Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân
2.1.1/ Nhà nước của dân
- Nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là
chủ, dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng nhất của đất nước, dân tộc.
-Người cầm quyền, cán bộ công chức nhà nước chỉ là người được ủy quyền để
gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước.
“...Các
cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa
là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời
kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6,
NxbCTQG, H,2000, tr.56).
“Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét
nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là sự phân công làm đầy tớ cho dân”.
”( Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, tr.275.)
2.1.2/ Nhà nước do dân
-Nhà
nước do dân là dân làm chủ Nhà nước; Nhà nước phải tin dân và dựa vào dân.
- Quyền làm chủ nhà nước
của nhân dân có nội dung rất rộng:
+ Nhân dân làm chủ nhà nước thông
qua việc tổ chức, xây dựng nên các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa
phương bằng con đường tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu
kín.
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân
tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác việc nước nhà. (Hồ
Chí Minh toàn tập - NXB CTQG h. 1995, t. 4 tr. 116).
Quyền lực tối cao của nhân dân
còn thể hiện ở quyền bãi miễn các đại biểu, các cơ quan nhà nước nếu không còn
phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích nhân dân.
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, Chính phủ là đầy
tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc phê bình Chính phủ. Chính phủ thì
việc to nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân”. “Nhân dân có quyền bãi miễn
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm
soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”( Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7,
tr.368).
+ Nhà nước do dân nghĩa là dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ
đóng góp trí tuệ, sức người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển
nhà nước.
+
Nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra,
kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử
ra.
2.1.3 / Nhà nước vì dân
-Nhà nước phải biết chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân
-Nhà nước tồn tại và hoạt động vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động
chứ không phải vì quyền lợi của một nhóm người hay một tập đoàn xã hội nào đó.
-Nhà
nước phải thật sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc
quyền, đặc lợi.
2.2/ Bản chất giai cấp công nhân
của Nhà nước ta
-Bất kỳ một nhà nước nào cũng mang bản chất của
một giai cấp nhất định.
-Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do
dân, vì dân về bản chất là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân.
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt
động theo các nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nước chuyên
chính vô sản.
+ Nhà nước luôn được đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng Sản.
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt
động và vận hành theo nguyên tắc dân chủ tập trung.
+ Cơ sở xã hội của Nhà nước là
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công- nông- trí thức.
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt
động theo nguyên tắc: quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công
rành mạch về chức năng, nhiệm vụ giữa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Nhà nước điều hành, quản lý xã
hội bằng pháp luật, mà pháp luật đó đại biểu cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích
của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao động
-Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước có sự
thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và dân
tộc
2.3/ Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
- Một nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước hợp
pháp và hợp Hiến, được nhân dân tổ chức nên thông qua tuyển cử, được xây dựng
và hoạt động theo các nguyên tắc của Hiến pháp.
- Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải thể hiện
được việc điều hành và quản lý xã hội bằng pháp luật, người dân sống và làm
việc theo luật định.
- Hồ Chí Minh xem pháp luật là phương tiện để xây
dựng và củng cố Nhà nước.
-Luật pháp phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động làm nền
tảng để xây dựng Nhà nước, xây dựng xã hội.
- Trong quá trình thực thi pháp luật, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, bình đẳng.
- Trong ý tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa “Pháp trị” và “đức trị”.
2.4/ Vấn đề xây dựng bộ máy,
cán bộ, công chức nhà nước
2.4.1. Về xây dựng bộ máy nhà nước
* Phương châm:
- Xây dựng bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, có cơ cấu hợp
lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa
của đất nước.
* Nguyên tắc:
-Xây dựng Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân.
- Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả.
-Xây dựng một nền hành chính quốc gia thống nhất trên nền tảng dân chủ,
hiện đại và hoạt động có hiệu lực thực tế.
-Xây dựng một bộ máy tư pháp
có tính độc lập tương đối, dân chủ, hiện
đại, có hiệu quả.
2.4.2/ Về xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước
-Hồ Chí Minh có một quan niệm nhất quán, chuẩn
xác, hết sức hiện đại về công vụ, công chức nhà nước.
-Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn
đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước:
+ cán bộ công chức nhà nước phải
vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc.
“Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ
có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”. “Phải có chính trị trước rồi mới có
chuyên môn; chính trị là đức chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là
hỏng…Đức phải có trước tài…”.(HCM toàn tập, NXBCTQG, HN.2002, T7, tr480)
+ Cán bộ viên chức phải hội tụ
đầy đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, có tri thức, nắm vững lý luận, sâu
sát thực tế, có lý trí vững chắc, có tình cảm trong sáng, chấp hành đúng pháp
luật.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí
Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng người, tạo điều kiện cho nhân viên phát
huy được tài năng và phẩm chất của mình.
-Hồ Chí Minh đã Xây dựng quy chế khung thi tuyển
cán bộ, viên chức nhà nước vào các ngạch bậc của ngành hành chính.
3/ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ViỆT NAM CỦA
NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN HIỆN NAY
1/ Thực trạng tổ chức và hoạt
động của Nhà nước ta hiện nay
a/ Thành tựu:
- Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao
chất lượng hoạt động
- Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu
mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực
-Cải cách hành chính tiếp
tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính
thống nhất và công bố công khai.
-Tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp có một số đổi mới.
-Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường
3.1.2/ Hạn chế:
- Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ
quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ
của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo.
-Cải cách hành chính chưa
đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
-Năng lực dự báo, hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu
-Cải cách tư pháp còn
chậm, chưa đồng bộ.
-Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử
trong một số trường hợp chưa chính xác.
- Công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra
3.2/ Những quan điểm và phương hướng xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Một là, tiếp tục phát huy tốt hơn và
nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc
giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công
chức nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước thật sự là công bộc, tận tuỵ
phục vụ nhân dân.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước; xây dựng và hoàn thiện
nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của các
cơ quan nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với
việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.
3.3/ Một số giải pháp xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
* Đẩy mạnh xây dựng và từng
bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCNVN
- Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
-Tiếp tục cải cách thể chế và
phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước
+ Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội
& Chính phủ.
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ
tục hành chính
+Tiến hành sắp xếp lại bộ máy hành chính ở các cấp
chính quyền theo phương châm tinh, gọn.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, có năng lực
+ Nhanh chóng hoàn thiện chế độ công vụ, Luật cán
bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức.
+ Có chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý ở
các cơ quan nhà nước
+Sắp xếp lại đội ngũ theo các chức danh, tiêu
chuẩn
- Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế
+ Tăng cường và mở rộng dân chủ, nhất là dân chủ ở
cơ sở
+Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
- Đấu tranh chống tham nhũng.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước
-Về đổi mới, chỉnh đốn Đảng
- Tiếp tục làm tốt và nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, củng cố, nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở.
- Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ; xây dựng chế độ,
chính sách cán bộ; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ, đảng
viên.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
* Về đổi mới nội dung, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước.
- Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
về phân định và mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và quản lý của Nhà nước.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp
làm việc giữa các cơ quan, tổ chức Đảng với các cơ quan, tổ chức nhà nước ở tất
cả các cấp; bảo đảm tôn trọng điều lệ Đảng, tôn trọng hiến pháp và pháp luật.
- Tăng cường công tác kiểm tra, bảo vệ nội bộ của
Đảng, chỉ đạo sát sao hơn đối với hoạt động thanh tra và hoạt động của các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối
với công tác cán bộ trong bộ máy nhà nước, bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
→
Trong xây dựng nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Nhà nước phải thường
xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lắng nghe ý dân, phải dựa vào dân,
phải thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để người dân tham gia
vào công việc nhà nước một cách đầy đủ và thực sự.
0 Comments