Câu 1: Nội dung cơ
bản của phép biện chứng duy vật.
V.I.Lênin trên
cơ sở khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời đã đưa ra định
nghĩa nổi tiếng về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”. Nội dung định nghĩa được hiểu như sau: Vật chất là một phạm trù triết
học nghĩa là vật chất không tồn tại cảm tính, đây là phạm trù có tính khái quát
nhất giống với khái niệm vật chất trong một số ngành khoa học cụ thể hay trong
đời sống thường ngày; Vật chất tồn tại thực khách quan có nghĩa là vật chất có
vô vàn thuộc tính nhưng thuộc tính cơ bản quan trọng nhất là thực tại khách
quan, tồn tại thực khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người và loài người; Vật chất đem lại cho con người trong cảm giác được cảm
giác chụp lại, chép lại, phản ánh cụ thể là vật chất tồn tại khách quan, nhưng
không tồn tại trừu tượng mà tồn tại hiện thực qua các sự vật cụ thể. Khi tác
động vào các giác quan chúng gây nên cảm giác và được cảm giác ghi chép lại; Ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức có hai nguồn gốc:
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Quan
điểm duy vật macxit về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Vật chất và ý thức
có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau: Mối quan hệ thứ nhất: Vật
chất quyết định ý thức: Vật chất là tiền đề nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại
của ý thức, điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế ấy, khi cơ sở và
điều kiện vật chất biến đổi thì ý thức cũng biến đổi theo. Cơ sở điều kiện vật
chất là nơi hình thành các công cụ phương tiện để “nối dài” các giác quan của con
người để nhận thức thế giới, đồng thời còn là điều kiện môi trường để thực hiện
hóa ý thức, là nơi kiểm nghiệm xác nhận đúng sai của ý thức; Mối quan hệ thứ
hai: Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại với vật chất: Ý thức
phản ánh hiện thực khách quan vào óc người giúp con người hiểu được bản chất
quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng hình thành phương hướng mục
tiêu và phương pháp hiện thực. Sự tác động của ý thức đối với vật chất biểu
hiện qua hai khuynh hướng: Nếu ý thức phản ánh đúng sẽ thúc đẩy và cải tạo thế
giới hiện thực và ngược lại.
Phép biện
chứng duy vật của C.Mác, Ph.Ăngghen là kết quả kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa của các nhà biện chứng tiền bối và khái quát những thành tựu của khoa học
đương thời. Trong phương pháp biện chứng này có sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng. Thế giới quan duy vật được làm giàu
bằng phương pháp biện chứng được đặt trên nền thế giới quan duy vật. Cho nên,
biện chứng duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen hơn hẳn về chất so với các hình thức
biện chứng trong lịch sử. Phép biện chứng bao gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm
trù và ba quy luật cơ bản. Đó là một hệ thống lý luận phản ánh chân thực thế
giới khách quan. Vì vậy, phép biện chứng duy vật là cơ sở khoa học để xác định
phương pháp nhận thực và cải tạo hiện thực. Sau đây là nội dung cơ bản của phép
biện chứng duy vật:
Thứ
nhất là về hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng suy vật:
Một là: Nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến: Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học chỉ sự ràng buộc qui
định lẫn nhau tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng và các quá trình.
Theo quan điểm biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình trong Thế
giới vừa tồn tại độc lập vừa có tính qui định tác động qua lại lẫn nhau. Về nội
dung thì mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ sự qui định,
tác động qua lại chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt, các yếu tố của cùng một sự vật, một hiện tượng trong cùng một Thế giới.
Nội dung cụ thể của nguyên lý: Thế giới là một chỉnh thể thống nhất các sự vật,
hiện tượng và các quá trình cấu thành Thế giới vừa tách biệt, vừa có sự liên hệ
thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau; Mối liên hẹ phổ biến có những tính chất sau:
Tính khách quan; Tính phổ biến; tính đa dạng, phong phú. Ý nghĩa của nguyên lý:
Nhận thức sự vật trong mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố, các mặt chính của
sự vật trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác, rút ra
quan điểm toàn diện trong nhận thức và hành động. Tránh xem xét dàn trải, giản
đơn một chiều, phiến diện. Biết phân biệt từng loại mối quan hệ, xem xét có
trọng tâm, trọng điểm…Biết sử dụng đồng bộ các phương pháp, phương tiện để tác
động vào các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Hai là: Nguyên lý về sự phát
triển: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện hơn đến hoàn
thiện hơn. Nội dung của nguyên lý: Phát triển là một hình thức cao nhất của sự
vận động dấn tới sự ra đời cái mới tiến bộ hơn cái cũ; Phát triển là cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập, là kết hợp tiên tiến và nhảy vọt là sự nảy sinh cái
mới, phát triển không theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc; Phát triển là
khuynh hướng chung có tính phổ biến khách quan đa dạng và kế thừa; Nguồn gốc
của sự phát triển nằm ngay trong sự vật và tự thân sự vật. Ý nghĩa phương pháp
luận: Khi xem xét đánh giá sự vật phải đặt nó trong sự vận động, phát triển.
Phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của các sự vật. Nhận thức sự vật
trong tính biện chứng của nó, thấy được khuynh hướng tính phức tạp của sự phát
triển. Phát hiện cái mới, cái tiến bộ tạo điều kiện cho nó phát triển. Biết
phân biệt quá trình phát triển thành những giai đoạn khác nhau để có cách thức
tác động phù hợp. Có quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức. Biết khắc phục
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Thứ
hai là về các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng:
Một là: Cặp phạm trù cái riêng và
cái chung: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình hay một hệ thống các sự vật tạo thành một chỉnh thể tồn
tại độc lập tương đối với những cái riêng khác; Cái chung là một phạm trù triết
học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính giống nhau được lặp lại trong nhiều
cái riêng khác; Cái đơn nhất là phạm trù triết học chỉ những đặc điểm, những
thuộc tính vốn có chỉ của một sự vật, hiện tượng, quá trình và không được lặp
lại ở các cái riêng khác; Mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù: Cái chung và cái
riêng tồn tại khách quan giữa chúng có mối quan hệ với nhau, cái chung chỉ tồn
tại trong cái riêng thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình, cái
riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, nghĩa là không có cái
riêng tồn tại độc lập, cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn cái chung, cái
chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; Ý nghĩa phương pháp luận: Cái
chung chỉ tồn tại như một bộ phận trong cái riêng vì vậy muốn phát hiện cái
chung phải thông qua nghiên cứu nhiều cái riêng. Không được tuyệt đối hóa cái
nào nếu tuyệt đối hóa cái chung là rơi vào chủ nghĩa giáo điều, nghèo nàn, đơn
điệu, kinh viện, còn nếu tuyệt đối hóa cái riêng là rơi vào chủ nghĩa kinh
nghiệm.
Hai là: Cặp phạm trù nguyên nhân
và kết quả: Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại
giữa các mặt, các bộ phận, các thuộc tính, các yếu tố trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định; Kết quả là phạm trù
triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do nguyên nhân tạo ra; Mối quan
hệ giữa hai cặp phạm trù: Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn là cái có trước còn kết
quả bao giờ cũng xuất hiện khi nguyên nhân đã xuất hiện. Kết quả có sự tác động
trở lại đối với nguyên nhân, sự tác động đó theo 2 xu hướng: thúc đẩy sự hoạt
động của nguyên nhân hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân. Nguyên nhân và
kết quả có thể chuyển đổi vị trí cho nhau; Ý nghĩa phương pháp luận: Phải tôn
trọng tính khách quan của mối quan hệ nhân quả trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn, vì vậy cần đề phòng phê phán quan điểm duy tâm siêu hình. Một kết
quả do nhiều nguyên nhân gây ra do đó muốn có kết quả cao phải biết phát hiện
nhiều nguyên nhân, biết hạn chế tác động của nguyên nhân ngược chiều, tạo điều
kiện cho nguyên nhân cùng chiều, phải chú trọng nguyên nhân chủ yếu, nguyên
nhân bên trong. Phải biết biến kết quả đạt được thành những nguyên nhân tiếp
theo và hướng kết quả tiếp sau ngày càng cao hơn không thỏa mãn ở bất cứ kết
quả nào.
Ba là: Cặp phạm trù tất nhiên và
ngẫu nhiên: Tất nhiên là phạm trù triết học chỉ cái do nguyên nhân chủ yếu bên
trong sự vật qui định và những điều kiện nhất định, nó nhất định phải xảy ra
như thế chứ không thể khác; Ngẫu nhiên là phạm trù triết học chỉ cái không phải
do bản chất kết cấu bên trong sự vật, mà do những nguyên nhân bên ngoài, do sự
ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định; Mối quan hệ của hai cặp phạm
trù: Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên có thể tồn tại khách quan và độc lập với ý
thức con người, chúng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của sự vật. Cái
tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại thống nhất biện chứng nghĩa là không có tất
nhiên thuần túy và ngược lại. Quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên mang tính
lịch sử chúng có thể thay đổi vị trí cho nhau; Ý nghĩa phương pháp luận: Con
người muốn nhận thức và hành động đúng, chủ động thì phải nắm được cái tất
nhiên cũng là nắm được quy luật và thông qua những cái ngẫu nhiên để tìm ra cái
tất nhiên và từ cái tất nhiên chi phối lại cái ngẫu nhiên bất lợi. Cái ngẫu
nhiên phong phú phức tạp không theo ý muốn nên nhiều khi gây tác hại cho con
người, vì vậy nắm cái tất nhiên để chủ động phòng cái ngẫu nhiên gây ra hậu quả
xấu.
Bốn là: Cặp phạm trù nội dung và
hình thức: Nội dung là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các yếu
tố, các quá trình tạo nên sự vật; Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương
thức, cách thức tồn tại và phát triển của sự vật; là cách thức sắp xếp của nội
dung, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự
vật; Mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù: Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
phong phú nhiều vẽ. Trong quan hệ giữa nội dung, hình thức thì nội dung giữ vai
trò quyết định còn hình thức thúc đẩy nội dung phát triển khi nó phù hợp và
ngược lại. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung biến đổi
nhanh hơn còn hình thức tương đối ổn định; Ý nghĩa phương pháp luận: Không được
tách rời hoặc tuyệt đối hóa mặt nào nếu tuyệt đối hóa một mặt là rơi vào chủ
nghĩa hình thức. Phải coi trọng nội dung trước đồng thời quan tâm đúng mức đến
hình thức. Khi hình thức đã lạc hậu mâu thuẫn với nội dung thì phải kiên quyết
thay đổi hình thức cho phù hợp và ngược lại.
Năm là: Cặp phạm trù bản chất và
hiện tượng: Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối
liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động
và phát triển của sự vật đó; Hiện tượng là phạm trù triết học chỉ cái biểu hiện
ra bên ngoài của bản chất; Mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù: Bản chất bao giờ
cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự thể hiện của
bản chất. Không có bản chất thuần túy tách rời hiện tượng và ngược lại, không
có hiện tượng không thể hiện bản chất. Bản chất khác nhau bộc lộ qua các hiện
tượng khác nhau; Ý nghĩa phương pháp luận: Trong nhận thức, không được dừng lại
ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm ra bản chất của sự vật. Phải thông qua nhiều
hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng được bản chất. Bản chất phản ánh tính
tất yếu, tính quy luật nen trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản
chất chứ không căn cứ vào hiện tượng mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về
sự vật, hiện tượng.
Sáu là cặp phạm trù khả năng và
hiện thực: Hiện thực là phạm trù triết học chỉ mọi cái đang tồn tại thực sự
trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Khả năng là phạm trù triết học được sử dụng để
chỉ những cái có thể xảy ra trong tương lai khi có điều kiện tương ứng và trên
cơ sở những mầm mống tiền đề đã có; Mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù: Trong
cùng một điều kiện, mỗi sự vật có thể có một số khả năng khác nhau (phụ thuộc
vào điều kiện). Trong tự nhiên, khả năng trở thành hiện thực là tự phát. Trong
xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, muốn khả năng trở thành hiện thực
phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người; Ý nghĩa phương pháp luận: Khả
năng và hiện thực không tách rời nhau, nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
cần dựa vào hiện thực để nhận thức và hành động. Cần phân biệt khả năng với cái
không khả năng, khả năng với hiện thực để tránh rơi vào ảo tưởng. Trong đời
sống xã hội, để khả năng biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng
động chủ quan của con người trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng
thành hiện thực theo mục đích của mình.
Thứ
ba là những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Quy
luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các sự
vật, hiện tượng giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính
của cùng một sự vật. Phép biện chứng duy vật gồm ba quy luật cơ bản mang tính
phổ biến sau:
Một
là quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất
và ngược lại: Chất là một phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn
có của các sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho
sự vật là nó mà không phải là sự vật khác; Lượng là phạm trù triết học chỉ tính
quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát
triển, biểu thị đại lượng con số các thuộc tính, các yếu tố…cấu thành sự vật;
Mối quan hệ giữa lượng và chất: Lượng và chất có mối quan hệ thống nhất hữu cơ
với nhau trong sự vật, không chỉ có sự vật nào thuần túy chỉ có vật và chất.
Lượng và chất có sự thống nhất tương đối, sự biến đổi về lượng trong một giới
hạn nào đó chưa gây ra sự thay đổi căn bản về chất gọi là độ. Độ là giới hạn mà
ở đó lượng thay đổi nhưng chưa làm cho chất thay đổi. Quan hệ giữa lượng và
chất có mâu thuẫn, lượng thường biến đổi nhanh hơn còn chất tương đối ổn định.
Lượng thay đổi đến giới hạn của độ thì chất cũ chuyển sang chất mới, sự thay
đổi về chất gọi là bước nhảy. Chất mới ra đời lại thiết lập trong sự vật 1 sự
thống nhất mới giữa lượng và chất mới ở trình độ cao hơn. Chất mới mở đường cho
lượng mới phát triển nhanh hơn trong độ mới. Như vậy bất kỳ sự vật nào cũng là
sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới
hạn của độ tới điểm nút sẽ dấn đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông
qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động tở lựi sự thay đổi của lượng mới,
quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động và
phát triển; Ý nghĩa phương pháp luận: Tôn trọng quy luật, biết từng bước tích
lũy về lượng để thay đổi về chất, chống tư tưởng chủ quan nóng vội, duy ý chí.
Khi đã tích lũy đủ về lượng, phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, chống tư
tưởng bảo thủ trì trệ. Biết vận dụng, linh hoạt các hình thức bước nhảy.
Hai
là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Mặt đối lập là phạm
trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm thuộc tính, tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại khách quan trong xã hội và tư duy. Hai
mặt đối lập cùng tồn tại vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng; Nội dung của quy luật: Sự thóng nhất trong mặt đối lập là sự
nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau, làm tiền đề cho nhau cùng tồn tại. Sự đầu
tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ định
lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, đấu tranh của các mặt
đối lập là tuyệt đối. Vậy sự tồn tại cùng lúc của 2 mặt đối lập trong mỗi sự
vật, hiện tượng, sự thống nhất giữa hai mặt đó và cuộc đấu tranh giữa chúng tạo
thành nguồn gốc và động lực của sự vận động phát triển của sự vật. Mọi sự vật
hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những
mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực nội tại của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất
đi cái mới ra đời; Ý nghĩa phương pháp luận: Phải đi sâu nghiên cứu, phát hiện
ra mâu thuẫn của sự vật. Cần xem xét mâu thuẫn trong quá trình phát sinh, phát
triển, có phương pháp phân loại và giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn thường được
giải quyết bằng con đường dấu tranh không né tránh hoặc sợ đấu tranh.
Ba
là quy luật phủ định của phủ định: Phủ định là khái niệm chỉ sự thay thế sự vật
này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Có hai loại phủ
định: Phủ định siêu hình và phủ định biện chứng. Phủ định siêu hình là phủ định
sạch trơn, sự phủ định không tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, không tạo
cho cái mới ra đời, lực lượng phủ định là ở bên ngoài sự vật. Phủ định biện
chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tự phủ định, sự phủ định tạo tiền đề
để cho sự phát triển tiếp theo của sự vật, sự phủ định tạo tiền đề cho cái mới
ra đời thay thế cái cũ, lực lượng phủ định ở ngay trong bản thân sự vật; Nội
dung của quy luật: Phủ định biện chứng mang tính khách quan kế thừa. Phủ định
biện chứng mang tính chu kỳ, sau ít nhất 2 lần phủ định sự vật hoàn thành 1 chu
kỳ phát triển, những lần phủ định đầu dường như phủ định chính nó lần phủ định
sau dường như trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Tính kế thừa là
sự vật mới ra đời kế thừa những nhân tố tích cực của sự vật cũ. Tính liên tục
vô tận là sự phát triển của sự vật diễn ra theo đường “xoáy ốc”. Vậy quy luật
phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và
cái phủ định nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, bảo tồn
những nội dung tích cực của các giai đoạn trước bổ sung thêm những yếu tố mới,
lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn
làm cho sự phát triển đi theo đường xoáy ốc; Ý nghĩa phương pháp luận: Nhận
thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Phải biết kế thừa có phê phán,
có chọn lọc những “hạt nhân hợp lý” tích cực của cái cũ, đồng thời cải tạo,
biến đổi bổ sung hoàn thiện cái mới. Khắc phục tư tưởng bảo thủ, định kiến.
Câu 2: Lý luận hình thái kinh tế-xã hội:
Nội
dung của lý luận hình thái kinh tế - xã hội:
Một
là sản xuất vật chất-nền tảng của xã hội: Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng
có của con người và của xã hội loài người, đó là quá trình hoạt động có mục
đích và không ngừng sáng tạo của con người; Sản xuất vật chất có vai trò quan
trọng đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội: Sản xuất vật chất là hoạt động
khi con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động nhằm cải
biến tự nhiên, tạo ra của cải cần thiết để thỏa mãn nhu cầu tồn tại của xã hội
loài người. Sản xuất vật chất có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và
tính sáng tạo. Quá trình sản xuất vật chất gồm các yếu tố, sức lao động, tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Thông qua sản xuất vật chất con người có
thể tạo ra và biến đổi các quan hệ xã hội cũng như chính bản thân con người. Vì
vậy có thể nói lịch sử của xã hội là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
Hai
là mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Nội dung
thứ nhất trong mối quan hệ biện chứng này là về phương thức sản xuất và quan hệ
sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất của cải vật chất
trong một giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội loài người. Mỗi phương thức
sản xuất bao gồm 2 mặt: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; Mặt thứ nhất Lực
lượng sản xuất: là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với trình độ kỹ thuật, kỹ năng
thói quen trong lao động của họ, tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư
liệu lao động trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất. Lực lượng sản xuất
thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất. Vai trò của công cụ lao động: Trình độ phát triển của công cụ sản
xuất vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên, vừa là tiêu chuẩn phân biệt
sự khác nhau giữa các thời ký kinh tế, kỹ thuật trong lịch sử. Ngày nay tri thức khoa học
được vật hóa, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất nên có
thể nhận định khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Lực lượng sản
xuất do con người tạo ra thỏa mãn nhu cầu của con người nhưng luôn là yếu tố khách
quan vì: Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng
năng lực ấy lại quy định bởi những điều kiện khách quan trong đó con người sinh
sống bởi những lực lượng sản xuất đã đạt được do thế hệ trước tạo ra. Trình độ
của lực lượng sản xuất chỉ năng lực, mức độ, hiệu quả chinh phục Thế giới tự
nhiên thông qua việc sử dụng công cụ lao động tác động vào Thế giới tự nhiên để
tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người; Mặt thứ hai quan hệ sản xuất là
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất được thể hiện
thông qua 3 mối quan hệ: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức về
tổ chức và quản lý quá trình sản xuất, quan hệ về phân phối sản phẩm trong quá
trình sản xuất. Ba mối quan hệ trên có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau
trong đó quan hệ về tư liệu sản xuất giữa vai trò quyết định; Nội dung thứ hai
là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
thống nhất trong một phương thức sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội
dung vật chất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất. Sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự không phù hợp và hình thành mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện như sau: Lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ
sản xuất như thế ấy, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng
phải thay đổi theo cho phù hợp, khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản
xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng mất đi, quan hệ sản xuất mới ra
đời cho phù hợp. Lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ công nghiệp hóa, với
quy mô lớn, năng suất lao động cao, tất yếu đòi hỏi các loại hình sở hữu có
tính chất xã hội hóa, với phương cách quản lý hiện đại, phương thức phân phối
đa dạng qua giá trị, vì vậy trong 1 phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất
bao giờ cũng giữa vai trò quyết định, lực lượng sản xuất phát triển đến một mức
độ nhất định nào đó đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi cho phù hợp; Sự
tác động trở lại của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất: Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó
là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại. Quan hệ sản
xuất được xây dựng trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất do lực
lượng sản xuất quyết định, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất được biểu
hiện như sau: Quan hệ sản xuất quy định mục đích của xã hội sản xuất, quan hệ
sản xuất quy định hình thức tổ chức và quản lý sản xuất. Bên cạnh đó quan hệ
sản xuất quy định khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần, vì vậy hình thành nên các yếu tố tác động trở lại đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất theo 2 xu hướng: Nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì tạo ra địa bàn và trở
thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại. Nội dung
thứ ba là sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam: Trước đổi mới: quan điểm lệch
lạc, sai lầm chủ quan trong nhận thức, sai lầm trong thực tiễn, về kinh tế xóa
bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất khi nó đang tạo địa bàn cho lực lượng sản
xuất phát triển. Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan
khi trình độ còn thấp kém dẫn đến nền kinh tế trì trệ khủng hoảng. Từ đổi mới
cho đến nay, Đảng đã có nhận thức đúng, vận dụng quy luật phù hợp nên thực tiễn
đã thay đổi và phát triển, về kinh tế chấp nhận cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhiều thành phần kinh tế.
Ba
là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Nội
dung thứ nhất là khái niệm: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các mối quan hệ sản xuất
hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội; Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những
tư tưởng chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng
với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, tôn giáo, giáo hội, các đoàn
thể xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Nội
dung thứ hai là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại: Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: Mỗi cơ sở hạ tầng hình
thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó, quan hệ sản xuất nào
thống trị thì tạo nên kiến trúc thượng tầng tương ứng, giai cấp nào thống trị
về kinh tế thì tư tưởng của giai cấp đó cũng thống trị. Khi cơ sở hạ tầng thay
đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi
thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi, kiến trúc thượng tầng
mới ra đời theo để đảm bảo tính tương ứng; Kiến trúc thượng tầng có tính đọc
lập tương đối tác động trở lại với cơ sở hạ tầng: Kiến trúc thượng tầng khi đã
ra đời mang tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng, sự tác động
đó biểu hiện qua hai xu hướng: Phù hợp sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu kiến
trúc thượng tầng không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng
cuối cùng thì tất yếu vẫn vạch đường đi cho nó, buộc kiến trúc thượng tầng phải
thay đổi theo yêu cầu của phát triển kinh tế.
Nội
dung thứ ba là vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng trong công cuộc đổi mới ở nước ta: Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa có sự tác động đặc biệt với cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, cơ sở hạ tầng
không thể hình thành và phát triển một cách tự phát mà được xây dựng một cách
tự giác nhờ sự tác động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, tức là nếu
không có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể
xây dựng được cơ sở hạ tầng XHCN. Trong thời kỳ quá độ việc xây dựng phải được
tiến hành từng bước với những hình thức và bước đi thích hợp. Đảng ta xác định
xây dựng cơ sở hạ tầng theo quan điểm đổi mới là nhằm tạo ra 1 cơ sở hạ tầng mà
ở đó có nhiều quan hệ sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần
kinh tế, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau nhưng cùng vận động theo định
hướng XHCN trong đó thì thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Quan
hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là quan hệ kinh tế và chính trị
(Kinh tế quyết định chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, cơ
sở hạ tầng là kinh tế, kiến trúc thượng tầng là chính trị) Vì vậy cần phải vận
dụng phù hợp đúng theo quy luật khách quan, không tuyệt đối hóa mặt nào.
Nội
dung thứ tư: Sự hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XHCN: Cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XHCN không thể hình thành và phát triển một
cách tự phát mà được xây dựng một cách tự giác nhờ tác động một cách tích cực
của kiến trúc thượng tầng XHCN. Cơ sở hạ tầng XHCN được xây dựng trên cơ sở
từng bước thiết lập quan hệ sản xuất XHCN. Vì vậy việc xây dựng cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng XHCN cần phải tuân theo quy luật, không lấy ý muốn chủ
quan áp đặt, thay thế các quy luật khách quan, phải phát huy tính tích cực,
năng động, sáng tạo của kiến trúc thượng tầng trong việc vận dụng quy luật
khách quan.
Bốn
là phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của nó: Phạm trù hình thái
kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội
ở từng giai đoạn lịch sử phát triển nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và một kiến trúc thượng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Tương ứng
với mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử xã hội loài người là một hình thái kinh
tế - xã hội tương ứng. Một hình thái kinh tế xã hội bao gồm 3 yếu tố cấu thành:
đó là quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng; Quá trình
lịch sử tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội: Xã hội phát
triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai đoạn của sự phát
triển là một hình thái kinh tế- xã hội, đứng trên lập trường duy vật lịch sử,
chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định “sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã
hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”, dựa vào những căn cứ sau: Một là sản
xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và phát triển các
hình thái kinh tế-xã hội. Hai là, sự vận động, phát triển của các hình thái
KT-XH, sự chuyển biến từ hình thái này sang hình thái khác bị chi phối bởi các
quy luật khách quan. Ý nghĩa: Học thuyết hình thái KT-XH không những chỉ ra
được các nấc thang của sự phát triển lịch sử xã hội với những chế độ xã hội tồn
tại như một chính thể, như một cơ thể sống, mà còn vạch ra những quy luật chi
phối sự tồn tại vận động của các hình thái KT-XH. Do đó, học thuyết hình thái
KT-XH mang tính khoa học và có ý nghĩa thực tiễn to lớn mà chưa một học thuyết
nào có thể vượt qua.
Câu 3: Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị
thặng dư:
Một là: Chi phí sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận:
Chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa là gì: Muốn tạo ra giá trị hàng hóa, tất yếu phải chi phí
một số lao động nhất định bao gồm cả chi phí về lao động quá khứ và lao động
hiện tại. Chi phí về lao động quá khứ được biểu hiện ở giá trị của tư liệu sản
xuất (c); chi phí lao động hiện tại (lao động sống) biểu hiện ở giá trị mới
được tạo ra là (v+m). Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư
bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa. Về mặt lượng: chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hóa; Về mặt
chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng đầy đủ hao phí lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, còn chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản, nó tạo ra giá trị hàng hóa.
Khái niệm lợi
nhuận: Lợi nhuận là số tiền nhà tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản
xuất. Lợi nhuận được kí hiệu là p. Về mạt chất: giá trị thặng dư (m) là nội
dung bên trong, còn lợi nhuận (p) là hình thức biểu hiện bên ngoài; Về mặt
lượng: bao gồm tư bản cá biệt và tư bản xã hội.
Khái niệm tỷ
suất lợi nhuận: là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư bản
ứng trước. Kí hiệu là p’. Các nhân tố ảnh hưởng tới p’ gồm: tỷ suất giá trị
thặng dư, thời gian chu chuyển của tư bản và sự tiết kiệm của tư bản bất biến.
Hai là lợi nhuận bình quân-quy luật điều
tiết hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tự do
cạnh tranh:
Khái niệm cạnh
tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh một loại
sản phẩm với mục tiêu thu lợi siêu ngạch. Cơ chế cạnh tranh trong nội bộ ngành
là cơ chế tự do cạnh tranh do quy luật giá trị, cung cầu trên thị trường điều
tiết thông quan giá cả. Biện pháp cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh
bằng cách hợp lý hóa sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất va hợp lí hóa tiêu thụ
để chiếm được điều kiên kinh doanh thuận lợi. Kết quả cạnh tranh là dẫn tới sự
hình thành giá trị thị trường của hàng hóa và tạo ra những tỷ suất lợi nhuận
khác nhau.
Khái niệm cạnh
tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh thuộc các ngành
kinh tế khác nhau nhằm tìm được nơi, lĩnh vực đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao
nhất. Cơ chế cạnh tranh: di chuyển tư bản từ ngành, lĩnh vực đầu tư có tỷ suất
lợi nhuận thấp sang ngành, lĩnh vực có tỷ suất lợi cao. Kết quả: dẫn tới hình
thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân, giá cả sản xuất.
Khái niệm tỷ
suất lợi nhuận bình quân: là con số trung bình của các tỷ suất lợi nhuận.
Khái niệm lợi nhuận bình quân: là số
lợi nhuận ngang nhau khi các nhà tư bản có số vốn bằng nhau đầu tư vào các
ngành khác nhau dú cấu tạo hữu cơ của tư bản có thể khác nhau, tỷ suất lợi
nhuận bình quân được tính như sau: p’= p’1+p’2+……..p’n/n; Giá cả sản xuất: là
giá cả mang lại lợi nhuận bình quân, giá cả sản xuất=k + p; Ý nghĩa của việc
nghiên cứu lý luận lợi nhuận bình quân: Sự phát triển lý luận giá trị và giá
trị thặng dư của C.Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Chỉ ra quan
hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận bình quân. Vạch
rõ toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân.
Khái niệm tư
bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp: Tư bản thương nghiệp trước chủ
nghĩa tư bản: là hình thái tư bản độc lập được đàu tư vào lĩnh vực lưu thông;
Tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản: là toàn bộ tư bản xã hội được tách
ra từ sự vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp trên cơ sở chuyên môn hóa
lao động nhằm chuyên trách phục vụ quá trình lưu thông của tư bản công nghiệp;
Vai trò của tư bản thương nghiệp đối với tư bản công nghiệp: Giúp tư bản công
nghiệp giảm lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông. Giúp tư bản
công nghiệp tập trung cho sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tăng tốc độ chu
chuyển tư bản, tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm.
Khái niệm tư
bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản: Là bộ phận tư bản xã hội dưới hình thái
tiền tệ, được tách ra từ sự vận động tuần hoàn của tư bản nhất định để gia nhập
vào sư vận động tuần hoàn của tư bản khác.
Khái niệm lợi
tức cho vay trong chủ nghĩa tư bản: là phần lợi nhuận bình quân mà chủ thể sử
dụng tư bản nhượng lại cho chủ thể sở hữu tư bản. Lợi tức cho vay có nguồn gốc
là một bộ phận giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất, bề ngoài chỉ phản
ánh quan hệ giữa tư bản sở hữu và tư bản sử dụng, song thực chất phản ánh quan
hệ bóc lột giữa tập thể tư bản sở hữu và sử dụng với giai cấp công nhân làm
thuê.
Khái niệm tín
dụng trong chủ nghĩa tư bản: là hình thức vận động của tư bản cho vay, phản ánh
quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng tư bản cho vay dựa trên
các nguyên tắc hoàn trả có ký hạn và có lợi tức.
Khái niệm công
ty cổ phần: là mô hình doanh nghiệp hoạt động dựa trên nguồn vốn được hình
thành thông qua phát hành cổ phiếu.
Khái niệm tư
bản giả: là tư bản tồn tại dưới hình thức chứng khoán có giá trị đem lại thu
nhập cho người sử hữu chứng khoán.
Khái niệm thị
trường chứng khoán: là loại hình thị trường đặc thù, nơi diễn ra các giao dịch
về chứng khoán.
Tư bản kinh
doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Địa
tô tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân mà
nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ vì đã kinh doanh trên
ruộng đất của địa chủ. Có hai loại hình địa tô tư bản chủ nghĩa: địa tô chênh lệch
và địa tô tuyệt đối; Địa tô độc quyền là hình thức đặc biệt của địa tô tư bản
chủ nghĩa.
Câu 4: Tính tất yếu lựa chọn con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam :
+ Do nhu cầu
phát triển của dân tộc và bối cảnh Việt Nam đương thời cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
- Khởi nghĩa Yên Thế theo
đường lối Phong kiến của Hoàng Hoa Thám
thất bại.
- Khuynh hướng
làm cách mạng tiểu tư sản tri thức của hai nhà Nho yêu nước Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh thất bại.
+ Do xu thế phát
triển của lịch sử thế giới đương đại. Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga đã
thành công, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử nhân loại – quá độ lên CNXH
+
Hai nhu cầu lớn của dân tộc: Giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
- Nhu cầu giải phóng đất nước đang đặt ra
khẩn thiết nhưng các khuynh hướng phong kiến, tri thức, tư sản đều thất bại, từ đó nhu cầu cách mạng nước ta đặt ra phải có
đường lối mới.
- Trong quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã bắt
gặp chủ nghĩa Mác – Lênin và đi đến kết luận quan trọng rằng: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không còn con
đường nào khác là cách mạng vô sản”.
Câu 5: Điều kiện chủ quan để giai cấp công
nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới:
* Sự phát triển của
giai cấp công nhân
- Phát triển
về số lượng :
+ Số lượng
công nhân trong tổng lao động xã hội, sản xuất công nghiệp trong cơ cấu ngành
nghề tăng : Thông qua sự phát triển về lượng công nhân trong tổng số lao
động xã hội, cơ cấu công nhân trong các thành phần kinh tế. Cơ cấu về số lượng
công một nền kinh tế hiện đại được thể hiện ở hai mức độ : Mức độ
cao : cơ cầu kinh tế bao gồm lao động dịch vụ, công nghiệp và nông
nghiệp ; Mức độ trung bình : cơ cấu kinh tế gồm lao động công nghiệp,
dịch vụ và nông nghiệp, dẫn đến lượng lao động công nghiệp và tỷ lệ chiếm phần
lớn của công nghiệp và dịch vụ là nhân tố quan trọng xác định vấn đề phát triển
về số lượng của giai cấp công nhân. Những yếu tố về lượng cũng góp phần xác
định những phẩm chất của giai cấp công nhân như : trình độ lao động công
nghiệp, tác phong và kỷ luật lao động, lối sống, hệ giá trị của GCCN với toàn
XH.
- Phát triển
về chất lượng :
+ Chất lượng
về KT-kỹ thuật : Năng lực làm chủ công nghệ hiện đại, năng suất lao động
cao ; Trình độ văn hóa, tay nghề...đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước.
+ Chất lượng về chính trị - xã hội: Sự giác ngộ về
giai cấp, về sứ mệnh lịch sử; Trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Nhân tố cơ bản tác động đến sự phát triển GCCN đó
là công nghiệp hóa là “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết”, đây là nhân tố
khách quan và quan trọng nhất để hình thành các yếu tố về số lượng và chất
lượng của GCCN, vì đẩy mạnh CNH-HĐH từ đó mới tạo cơ sở cho quá trình phát
triển. Trong quá trình phát triển GCCN còn là một quá trình tự giác, nó gắn
liến với một nhân tố chủ quan rất quan trọng đó là vai trò của Đảng cộng sản,
do đó: sự trưởng thành của Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị của GCCN.
- Năng lực giải quyết những vấn đề chính trị-xã hội
trong cách mạng XHCN:
+ Giành được chính quyền nhà nước XHCN.
+ Bảo vệ và phát triển chế độ dân chủ XHCN.
+ Giải quyết các vấn đề chính trị xã hội: Liên minh
công- nông-trí thức, đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo...
+ Xây dựng xã hội: văn hóa mới, gia đình, con
người...
* Đảng cộng sản, nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện
thắng lợi SMLS của GCCN
- Mối
quan hệ giữa Đảng cộng sản và GCCN:
+ Đảng là
một bộ phận của GCCN, được sinh ra từ phong trào công nhân.
+ GCCN là
cơ sở xã hội quan trọng nhất của Đảng.
+ Đảng
chỉ gồm những người ưu tú nhất của giai cấp.
Đảng gồm
những người giác ngộ lý luận, có năng lực tổ chức, lãnh đạo giai cấp, có tinh
thần tiên phong và sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng, lợi ích của GCCN.
- Lý
tưởng, lợi ích của GCCN là mục tiêu phấn đấu của Đảng: Việc trau dồi không
ngừng tăng cường tính chất GCCN của Đảng, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và giai cấp, trung thành với lý tưởng và lợi ích của GCCN, của dân tộc là
quy luật phát triển của mỗi Đảng cộng sản. Đảng cao hơn giai cấp ở trình độ
giác ngộ lí tưởng, lợi ích và sự hy sinh cho giai cấp nên mới lãnh đạo giai
cấp.
- Nắm
vững và trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin là nhân tố cơ bản nhất tạo nên uy
tín, sức mạnh của Đảng với GCCN.
* Vai trò
của Đảng cộng sản với sứ mệnh lịch sử
Thế giới của GCCN
- Lãnh tụ
chính trị: Giúp GCCN trở thành tự giác, hiểu rõ và biết thực hiện SMLS. Đảng
thành lập là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của GCCN. Xác nhận
lý luận về GCCN đã thâm nhập sâu sắc vào phong trào; nó xác định phong trào đã
trưởng thành từ sự tự phát sang tự giác. Nó cũng xác định chủ nghĩa Mác-Lê nin
đã trở thành hệ tư tưởng của GCCN. Qua việc truyền bá lý luận vào phong trào
công nhân, Đảng cộng sản khẳng định vai trò lãnh tụ chính trị đối với giai cấp.
Từ đây phong trào đã có một tổ chức hạt nhân, một ngọn cờ lý luận.
- Tham
mưu giai cấp: Bằng tư duy lý luận vạch cương lĩnh, đường lối chính trị; Giác
ngộ giai cấp tạo sự thống nhất về tư tưởng; Tạo sức mạnh thống nhất, liên kết
hành động...bằng tổ chức. Đảng là người lãnh đạo cuộc đấu tranh của GCCN chống
lại giai cấp tư sản. Thông qua cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược
Đảng vạch ra những biện pháp đấu tranh giai cấp. Thông qua tổ chức Đảng từ
Trung ương đến cơ sở, Đảng tạo nên sự thống nhất hành động trong toàn giai cấp.
Thông qua việc giáo dục quần chúng và đấu tranh tư tưởng, Đảng tạo nên sự thống
nhất về tư tưởng, ý thức vì lợi ích của các giai cấp, đấu tranh chống lại các
tư tưởng cơ hội, xét lại, bè phái...bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác-Lê
nin.
- Tiền
phong đấu tranh: Tổ chức Đảng và Đảng viên đi đầu trong đấu tranh; Tiên phong
về trí tuệ, gương mẫu trong cuộc sống. Đảng là đội tiền phong của GCCN, đi đầu
trong đấu tranh giai cấp, dũng cảm nhận sự hy sinh vì lý tưởng cộng sản, tiên
phong về trí tuệ, gương mẫu trong cuộc sống, bằng tấm gương của mình để thuyết
phục lôi cuốn quần chúng.
0 Comments