Cơ sở khách quan quy định sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân? Điều kiện chủ quan chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?

Cơ sở khách quan quy định sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân? Điều kiện chủ quan chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?

Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
1. Cơ sở khách quan quy định sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân
a. Địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân
 - Giai cấp công nhân là một bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của XHTB. Họ đại diện cho LLSX tiến bộ có trình độ XHH ngày càng cao
- Trong XHTBCN GCCN là những người không có tư liệu sản xuất, do đó phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để kiếm sống và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
- Giai cấp công nhân là người sản xuất ra tuyệt đại bộ phận của cải cho xã hội nhưng trong quá trình phân phối sản phẩm họ lại bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản.
- Cùng với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản giai cấp công nhân ngày càng phát triển về về số lượng và chất lượng.
- Giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết được đông đảo quần chúng nhân dân lao động trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
=> Vậy địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân quy định 1 cách khách quan.
b. Những đặc điểm chính trị xã hội nổi bật của GCCN.
- GCCN là giai cấp tiên tiến nhất: Tính chất này do địa vị kinh tế XH của GCCN quy định. GCCN là sản phẩm của nền đại CN không ngừng phát triển và trưởng thành cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại. Khi nền công nghiệp hiện đại càng phát triển thì một bộ phận trí thức tiến bộ ngày càng gắn bó với GCCN và gia nhập GCCN làm cho GCCN trở thành lực lượng tiên tiến nhất.
- GCCN là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất: Lợi ích cơ bản của GCTS là duy trì chế độ tư hữu bóc lột lao động làm thuê, tăng lợi nhuận tối đa. Còn lợi ích của GCCN là xoá bỏ CĐTH, chế độ người bóc lột người, xoá bỏ giai cấp, giải phóng XH, giải phóng bản thân. Hai lợi ích giai cấp này không thể điều hoà được. Lợi ích của GCCN về cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân LĐ và của các dân tộc. Vì vậy, GCCN không chỉ có khả năng xoá bỏ QHSX lỗi thời mà còn có khả năng XD một XH mới tiến bộ hơn.
- GCCN là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao: ĐK SX tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức sản xuất chặt chẽ…đã tôi luyện cho GCCN tính tổ chức và kỷ luật cao. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh chống lại GCTS thống trị có bộ máy đàn áp khổng lồ và rất nhiều thủ đoạn thâm độc, GCCN phải đoàn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính kỷ luật cao. Đây là điều kiện giúp cho GCCN thực hiện SMLS của mình.
- GCCN là giai cấp mang bản chất quốc tế: GCCN VN là giai cấp có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc do quá trình quốc tế hoá và do GCCN xuất thân từ dân tộc. CN ML đã nhấn mạnh rằng: GCCN nước nào phài thành giai cấp-dân tộc, chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình. Thực tiễn đã chứng minh rằng: nếu rời dân tộc mình, nhân dân thì GCCN và Đảng của nó không thể có sức mạnh, mà trái lại sẽ thất bại.+
=> Chính những đặc điểm này đã quy định 1 cách khách quan vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
2. Những nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Bản thân giai cấp công nhân: Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng
Về số lượngchẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong “kinh tế tri thức” hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân; đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân và đến 1998 đã có 800 triệu công nhân…
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì nó” (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản.
Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian. ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản.
Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
Mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp. Đối với giai cấp công nhân đó là đảng cộng sản, chẳng những đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của đảng, đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng như mỗi người công nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề… Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, thường xuyên phát triển vững mạnh… cùng với quá trình phát triển không ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, v.v..

Post a Comment

0 Comments