Nguồn gốc và bản chất
của giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa
+ Hàng hóa sức lao động
và sự tạo ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa
Hàng hóa sức lao động
Trong bộ Tư bản, khi trình bày lý luận giá trị thặng dư, C.Mác đi
từ so sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H - T - H với công thức lưu
thông của tư bản T - H - T’ (T’ = T + At) và chỉ ra mâu thuẫn công thức chung
của tư bản. Sau khi giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản, C.Mác đã
chỉ ra nhà tư bản mua được trên thị trường một thứ hàng hóa đặc biệt mà giá trị
sử dụng của nó có đặc tính làm tăng giá trị. Đó là hàng hóa sức lao động.
Lao động: là hoạt động có mục đích, có ỷ thức của con người tác động vào tự nhiên nhằm cải biến những vật thể
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Khi sức lao động két hợp với tư liệu sản xuất là quá trình lao động sản xuất,
gọi tắt là lao động.
Sức lao động (hay năng lực lao động): là toàn bộ những
năng lực thể chất và tỉnh thần tồn tại trong một
cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó
đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó,
Để sức lao động trở
thành hàng hóa, sức lao động phải hội đủ hai điều kiện:
Một là, người lao động phải
được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao động của mình. Sức
lao động chỉ xuất hiện trên thị trường vói tư cách là hàng hóa, nếu nó do bản
thân con người có sức lao động đưa ra bán.
Muốn vậy, người có
sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình - nghĩa là tự do sở hữu
năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hóa đòi hỏi phải thủ tiêu
chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến.
Hai là, người lao động
không có đủ những tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao động của
mình nhằm tạo ra các hàng hóa, cho nên chỉ có thể bán chính sức lao động của
chính mình.
Khi sức lao động
chuyển hóa thành hàng hóa sức lao động, tiền của nhà tư bản được sử dụng để mua
hàng hóa sức lao động thì khi đó tiền chuyển hóa thành tư bản.
Cũng giống như hàng
hóa thông thường, hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính: giá trị và giá tri
sử dụng.
Giá trị của hàng hóa
sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất
ra nó quyết định. Sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động được thực hiện thông
qua tiêu dùng cá nhân của công nhân. Bởi vậy, giá trị sức lao động bằng giá trị
toàn bộ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra và tái sản xuất sức
lao động, duy trì đời sống công nhân làm thuê.
Là thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động được quy thành thời gian lao động
xã hội cần thiết'để sản xuất những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ để duy trì cuộc
sống của người công nhân.
Giá trị hàng hóa sức lao động gồm những bộ phận hợp thành sau đây: gỉả trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ
cần thiết nuôi sống người công nhân; giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết nuôi sống con của người công nhân; chi phí đào tạo. Khi xã hội càng phát
triển thì nhu cầu về lao động chất lượng cao tăng lên, đồng thời nhu cầu tiêu
đùng, dịch vụ của công nhân cũng tăng lên theo sự phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội. Do đó, giá trị hàng hóa sức lao động có xu hưởng tăng lên. Mặt
khác, do năng suất lao động tăng lên, giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ
giảm xuống. Vì vậy, giá trị của hàng hóa sức lao động chịu sự tác động của hai
xu hướng đối lập này.
Là hàng hóa đặc biệt,
giá trị hàng hóa sức lao động khác hàng hóa thông thường ở chỗ: Giá trị hàng
hóa sức lao động mang yếu tố tinh thần và lịch sử.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quạ trình lao
động để sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Trong quá trình lao động, người lao
động đã một mặt chuyển giá trị lao động đã được vật hóa của tư liệu sản xuất
vào trong giá trị sản phẩm mói, đồng thời
bằng hao phí lao động trừu tượng của mình, hàng hóa sức lao động còn tạo ra
được một lượng giả trị mởi lern hơn giá trị của bản thân nỏ. Đây chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc điểm này là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Lao động sống và sự tạo ra giá trị thặng dư
Để tiến hành sản
xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Sản xuất tư bản chủ
nghĩa, một mặt là quá trình lao động sản xuất nói chung, trong đó sức lao động
và tư liệu sản xuất được kết họp với nhau để tạo ra một giá trị sử dụng nhất
định đáp ứng nhu cầu xã hội. Song, vì tư liệu sản xuất và sức lao động là do
nhà tứ bản mua, vì vậy quá trình này cỏ đặc điểm: một là, công nhân lảm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư
bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu
của nhà tư bản. Mặt khác, đó là quá trình tạo
ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới một trình độ
nhất định - chỉ cần một phần củạ ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo
ra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính mình. Bằng lão động cụ thể của
mình, công nhân sử dụng các tu liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào
sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá
trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư. Điều đó có
nghĩa, trong giá trị mới do lao động sống tạo ra ấy bao hàm bộ phận giá trị để
bù lại giá trị của hàng hóa sức lao động và bộ phận giá trị thặng dư.
Như vậy, lao động
sống là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa. Lẽ dĩ nhiên, để có thể tạo ra được giá trị thặng dư thì năng suất lao động
xã hội phải đạt đến trình độ nhất định. C.Mác nhấn mạnh: “Với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình
sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hóa; với tư cách là sự thống nhất giữa
quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản
xuất hàng hỏa”.
Quá trình sản xuất
giá trị thặng dư được dựa trên tiền đề là đến chủ nghĩa tư bản, năng suất lao
động xã hội đạt được mức công nhân chỉ cần một phần của ngày công lao động đã
có thể tạo ra khối lượng giá trị mới ngang với giá ừị sức lao động của mình.
Phần ngày lao động đó được gọi là thời gian lao động tất yếu, phần còn lại là
thời gian lao động thặng dư. Nếu ngày lao động chỉ dừng lại ở thời gian lao
động tất yếu thì chưa có giá ừị thặng dư, chỉ cần kéo dài quá thời gian đó là
có giá trị thặng dư. Vì vậy, thực chất của quá trình sản xuất giá trị thặng dư
là sự thống nhất giữa quá trình tạo ra giá trị với quá trình tăng thêm giá trị.
Giá trị hàng hóa được
sản xuất ra trong xí nghiệp tư bản chủ nghĩa gồm hai phần: giá trị những tư
liệu sản xuất đã hao phí được lao động cụ thể bảo tồn và chuyển dịch vào sản
phẩm (giá trị cũ) và giá trị mới do lao động trừu tượng của công nhân sáng tạo
ra. Bộ phận này lớn hơn giá trị của hàng hóa sức lao động. Bộ phận giá trị mới
lớn hơn so với giá trị hàng hóa sức lao động ấy được gọi là giá trị thặng dư.
Ký hiệu là m. Bộ phận giá trị thặng dư này được nhà tư bản thu lấy mà không trả
cho người lao động.
Với nghĩa đó, có thể hiểu: Giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa là giá trị mới do lao động sống tạo thêm
ra ngoài giá trị hàng hóa sức lao động, là bộ phận lao động không được trả công
của người làm thuê.
Theo nghĩa như vậy,
xét về mặt xã hội, bản chất của giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa thể hiện quan
hệ bóc lột giữa một bên là người có quyền sở hữu tư liệu sản xuất, với bên kia
là người sở hữu hàng hóa sức lao động, giữa nhà tư bản với ngươi lao động làm
thuê.
Trước đây từng có
nhận thức sai lầm cho rằng, giá trị thặng dư là phạm trù riêng của sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Thực ra, ngay cả sản xuất hàng hỏa nhỏ của nông dân và thợ thủ
công trong xã hội tư bản cũng có thể “không những tái sản xuất ra sức lao động
của minh, mà còn tạo ra giá trị thặng dư nữa”1. Ở đây, “người sản
xuất đã tạo ra giá trị thặng dư của chính mình... nhờ chỗ anh ta là người sở
hữu các tư liệu sản xuất, nên lao động thặng dư của bản thân anh ta rơi vào tay
anh ta...”. Tuy nhiên, sản xuất giá trị thặng dư không phải là quy luật tuyệt
đối của sản xuất hàng hóa nhỏ. Người tiểu nông và thợ thủ công cũng luôn mong
ước thu được giá trị thặng dư, nhưng nếu vì hoàn cảnh khách quan (như bị thiên
tai gây mất mùa hay khi gặp khỏ khăn trên thị trường phải tiêu thụ hàng hóa với
giá rẻ...) mà thu nhập của họ chỉ đủ để tái sản xuất sức lao động, thậm chí chỉ
được bữa rau bữa cháo cầm hơi, họ vẫn cứ phải tiếp tục sản xuất. “Đối vói người
nông dân có một mảnh đất nhỏ, giới hạn kinh doanh, một mặt không phải là lợi
nhuận trung bình của tư bản, chừng nào bản
thân anh ta là một nhà tư bản nhỏ; và mặt khác, giới hạn đó cũng không phải là
sự cần thiết phải nộp địa tô, chừng nào người nông dân vẫn còn là kẻ sở hữu
ruộng đất. Với tư cách là một nhà tư bản nhỏ, giới hạn tuyệt đốỉ duy nhất là
tiền công mà anh ta tự trả cho mình, sau khi đã trừ các chi phí theo đúng nghĩa
của danh từ đó đi. Chừng nào giá cả của sản phẩm còn đem lại tiền công ấy cho
anh ta thì anh ta vẫn sẽ còn canh tác mảnh đất của mình”.
Trái lại, sản xuất
giá trị thặng dư là mục tiêù và động cơ hoạt động tuyệt đối của từng nhà tư bản
cũng như toàn bộ nền sản xuất tư bản chù nghĩa. Điều này có nghĩa là tuyệt đối
phải thu được hoặc sẽ thu được lợi nhuận, ít nhất là lợi nhuận binh quân, thì
nhà tư bản mới đầu tư, mới duy trì sản xuất, kinh doanh. Nếu không thu được lợi
nhuận thì họ lập tức đình chỉ hoạt động, đóng cửa doanh nghiệp, sa thải công
nhân. Lòng thèm khát lợi nhuận, nhất là lợi nhuận siêu ngạch là động cơ thúc
đẩy các nhà tư bản cạnh tranh tìm nơi đầu tư có lợi và đi đầu trong việc ứng
dụng các thành tựu của tiến bộ khoa học và công nghệ. Chính vì vậý, C.Mác đã
khẳng định: “Sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất nảy”.
Đến đây có thể hiểu
rõ hơn bản chất của tư bản: Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư, tư bản
không phải là vật mà là quan hệ xã hội. Để đem lại giá trị
thặng dư, tư bản phải vận động theo mô hình phản ánh các mối quan hệ như sau:
T - H (Sức lao động
và tư liệu sản xuất) - SX (bằng lao động cụ thể, người lao động chuyển giá trị
của tư liệu sản xuất vào trong giá trị sản phẩm, đồng thời bằng lao động trừu
tượng, người lao động tạo ra giá ưị mới gồm bộ phận giá trị bù lại giá trị của
hàng hỏa sức lao động vả lượng giá trị thặng dư) - H’ (giá trị của tư liệu sản
xuất được chuyển vào + giá trị mới) - T\
Dĩ nhiên, để thu được
giá trị thặng dư, hàng hóa phải được bán đi.
Ngày nay, trong các
công ty cổ phần ở các nước tư bản, một bộ phận cổ đông là người lao động. Dựa
vào hiện tượng đó, các học giả tư sản đưa ra thuyết “chủ nghĩa tư bản nhân dân”
hòng phủ nhận bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản đương đại. Song, thực tế đã
vạch rõ, việc có một số cổ phiếu ít ỏi không làm thay đổi vị trí của người lao
động làm thuê trong doanh nghiệp.
Để khẳng định rõ hơn
nguồn gốc của giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa, C.Mác nghiên cứu các phạm trù
tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Tư bản bất biến:
Trưóc hét, xét bộ phận tư bản tồn tại dưói hình thái tư liệu sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, giá trị của nó được lao động cụ thể của công nhân bảo
tồn và chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hom giá ừị của tư liệu
sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm.
Cái bị tiêu dùng của
tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đỏ là .tạo ra
một giá ưị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới dạng hình
thái giá trị sử dụng mói, chứ không phải là được sản xuất ra.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất mà
giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm,
tức là giá trị không biển đổỉ về lượng trong quả trình
sản xuất, được gọi là tư bản bất biến (ký
hiệu là c).
Tư bản khả biến:
Bộ phận tư bản dùng
để mua sức lao động thì lại khác. Một mặt,
giá trị của nó chuyển thành tư liệu sinh hoạt của công nhân và mất đi trong
tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá trình lao
động, xét về mặt lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới, lớn hom giá
trị sức lao động. Việc làm tăng lượng giá trị
này đã làm cho bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động không ngừng chuyển hóa
từ một lượng bất biến thành một lượng khả biến, tức là đã tãng lên về lượng
trong quả trình sản xuất.
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động không tái hiện
ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức
là bịển đỗi về lượng, được gọi là tư bản khả biển (kỷ hiệu là v).
C.Mác là người đầu
tiên phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Việc phát hiện
ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hóa đã giúp C.Mác tìm ra chiếc
chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự
phân chia đó đã vạch rõ nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư chính là lao động
sống. Nếu nhà tư bản thuê cả người quản lý thì chỉ có sức lao động của người
làm thuê mói tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Như vậy, tư bản bất
biến là điều kiện không thể thiéu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư
bản khả biến có vai trò quyét định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận
tư bản đã lớn lên. Nếu ký hiệu giá trị thặng dư là m thì giá trị mới sẽ là (v +
m).
Đến đây, xét về mặt
kết cấu, giá trị của hàng hóa bao gồm c + (v + m). Trong đỏ, (v+m) là giá trị
mới do lao động sống tạo ra.
Ở đây, cần đấu tranh
chống quan điểm của các học giả tư sản cho rằng, ưong thời đại ngày nay, cả tư
bản bất biến và tư bản khả biến đều tạo ra giá trị thặng dư (m). Luận giải việc
tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai phạm trù khác
nhau. Ngày nay, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
máy móc tự động và rôbốt đã được sử dụng vào quá trình sản xuất, thay thế các
công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, dù máy móc có hiện đại
hơn, có hiệu suất cao hơn, trong quá trình sản xuất nó vẫn phát huy tác dụng
với tư cách là tư liệu lao động, là phương tiện để tạo ra giá trị sử dụng và
chuyển dịch giá trị vốn có của nó vào trong sản phẩm mói theo mức độ hao mòn
chứ không thể tăng thêm giá tri mới.
Mặc khác, dù máy móc
hiện đại vẫn phải do con người thiết kế và điều khiển. Việc thiết kế và điều
khiển hệ thống máy hoạt động chính là sự kết tinh lao động sống của con người,
đó còn là lao động phức tạp hơn. Nếu tách rời lao động sống của con người thì
máy móc hiện đại cũng không thể hoạt động.
Trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, doanh nghiệp cá biệt tiếp cận công
nghệ mới giúp nâng cao năng suất lao động, mặc dù giảm bớt số lượng công nhân
trực tiếp nhưng vẫn thu được giá trị thặng dư cao hơn do giá trị cá biệt của
doanh nghiệp thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hóa theo giá trị xã hội, sẽ
thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Vì thế, lý luận về sự phân chia tư bản
thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, cũng như vai trò của hai bộ phận ấy
trong trong điều kiện của thế giới hiện đại vẫn giữ nguyên giá trị.
+ Tỷ suất và khối
lượng giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị
thặng dư và tư bản khả biến; biểu hiện bằng công thức:
m’= m/v* 100%
Tỷ suất giá trị thặng
dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phàn trăm giữa thời gian lao động thặng dư (t’)
và thời gian lao động tất yếu (t)
m' = t’/t * 100%
Tỷ suất giá trị thặng
dư biểu hiện một cách rõ ràng và chính xác trình độ bóc lột sức lao động của
công nhân: trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân được
hưởng bao nhiêu, còn nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. Chủ nghĩa tư bản càng phát
triển, tỷ suất giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa càng có xu hướng tâng lên.
Khối lượng giá trị
thặng dư: Khối lượng giả trị thặng dư là một sổ lượng tuyệt
đối giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được. Khối lượng giá trị
thặng dư phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến. Nó
được xác định bằng công thức:
M = m/v* V = m’.V
Trong đó: M: Khối
lượng giá trị thặng dư m’: Tỷ suất giá trị thặng dư
V: Tổng tư bản khả
biến
Mục đích mở rộng sản
xuất của các nhà tư bản là nâng cao cả tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá ừị thặng dư cũng ngày càng
lớn.
Liên hệ:
0 Comments