Lời nói đầu
Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh là nội dung mang tính chiến lược trong tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, Người đã lãnh đạo
phong trào cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại, tạo ra một thời đại
mới của dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh,
thời đại độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
50
năm qua, dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng di sản tư tưởng Người để lại
có giá trị lịch sử, lý luận thực tiễn sâu sắc. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của cách
mạng Việt Nam.
Hiện
nay, Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi, thời cơ lớn nhưng đan xen nhiều
khó khăn, thách thức, nguy cơ. Hơn bao giờ hết, việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và chủ trương, quan điểm của Đảng ta về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là rất cần thiết
nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.
Năm
2020 là năm đất nước có nhiều ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn, sự kiện chính trị quan
trọng như: 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2020), 75 năm
Cách mạng tháng Tám thành công và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (1945-2020), 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
(1975-2020), 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-2020)…
Đặc
biệt, năm 2020 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, nhiều
nhiệm vụ lớn, quan trọng đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cần nỗ
lực và tập trung giải quyết. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong năm 2020
có ý nghĩa quan trọng không chỉ với việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020, mà
còn tạo tiền đề cho những năm sau.
Năm
2020 cũng là năm tiến hành đại hội Đảng bộ các cấp, chuẩn bị tiến tới Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đại hội diễn ra trong bối cảnh đất nước ta
có nhiều cơ hội to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc, đồng thời cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ cần phải
giải quyết. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn bó với
nhân dân, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh là những nhân tố hàng đầu bảo đảm chất lượng và
thắng lợi của đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng.
Để
tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25-7-2016 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn và xuất bản tài liệu chuyên đề
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2020: “Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chuyên
đề được sử dụng trong sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và được tuyên
truyền rộng rãi trong nhân dân.
Nội
dung tài liệu chuyên đề gồm Lời mở đầu, Kết luận và 2 phần chính:
Phần thứ nhất: Tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Phần thứ hai: Đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.
Xin
trân trọng giới thiệu tài liệu tới các đồng chí và quý bạn đọc.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
Phần thứ nhất
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
VỀ
TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC;
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
I. Tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với
tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả cuộc đời, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về
đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng,
các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân. Trong các tác phẩm của mình,
Bác có tới trên 400 bài nói và bài viết về đoàn kết. Tư tưởng về đoàn kết của Người
được thể hiện nổi bật là: “Đoàn kết làm
ra sức mạnh”[1]; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”[2]; “Đoàn kết là thắng lợi”[3]; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”[4]; “… một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm
này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”[5]; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”[6].
1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược
quyết định thành công của cách mạng Việt Nam
Thực
tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định mối quan hệ chặt
chẽ giữa đoàn kết và thành công. Hơn thế nữa, phạm vi, mức độ, quy mô của thành
công trước hết phụ thuộc vào chính quy mô và mức độ của khối đại đoàn kết. Có
đoàn kết mới có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao
nhiêu lại cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu.
Là vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà còn là vấn
đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”[7]; “Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công”[8]… Để lý giải một
nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại những thế lực
có ưu thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện chiến tranh, Người nói: “Toàn dân
Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ, Chỉ có một chí: Quyết không chịu
mất nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc
lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường
đó, chúng cũng phải thất bại”[9]. Theo Bác, đoàn kết trong Đảng là tiền đề đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để đoàn kết quốc tế. Đó là đường
lối chiến lược kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại
để tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng
Việt Nam; vì “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”[10].
Trước
lúc đi xa, trong bản Di chúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta
đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác”. Người cũng thể hiện mong muốn tột bậc: “Toàn Đảng,
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”[11].
2. Lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn
dân tộc
Theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp,
tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước,
người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường, lạc lối nhưng biết
hối cải trở về với nhân dân. Nói cách khác, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao
gồm: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”[12].
Với
chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên
cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng;
nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông - trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần giải quyết hài hòa lợi
ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các
vùng miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt. Mẫu số
chung để đại đoàn kết toàn dân tộc là: hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
tự do, giàu mạnh: “Toàn dân đoàn kết nhất trí thì chúng ta nhất định xây dựng
được nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tự do, giàu mạnh”[13].
Hình
thức tổ chức lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập với những
tên gọi phù hợp, như: Hội phản đế đồng minh (1930); Mặt trận Thống nhất nhân dân
phản đế Đông Dương (1936); Mặt trận dân chủ Đông Dương (1938); Việt Nam độc lập
đồng minh hội gọi tắt là Việt Minh (1941); Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam - gọi
tắt là Hội Liên Việt (1946); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955); Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam (1960); Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ
và Hòa bình Việt Nam (1968); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977 đến nay). Mặt trận
dân tộc thống nhất chỉ có thể bền vững khi được xây dựng trên nền tảng khối
liên minh công - nông - trí thức và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Người, để tập
hợp lực lượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không được phép bỏ sót bất cứ
thành phần giai cấp, xã hội nào, miễn là họ có lòng yêu nước, sẵn sàng cống hiến,
phục vụ quốc gia dân tộc. Và “Công, nông, trí chúng ta đoàn kết chặt chẽ, thì
chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn trở ngại… Chúng ta nhất định thành công
trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh”[14].
3. Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc
Trong bài Nói
chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc
của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”[15]. Vì vậy, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấp công
nhân để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
Nguyên
tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, thứ nhất,
tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn dân, phát động
các phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản xuất và chiến đấu,
bởi vì: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[16].
Thứ hai, đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ,
tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. Nhân dân cần được vận động, giác ngộ, tự nguyện
đứng trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng để “Đoàn kết của
ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân
tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”[17]. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng nhiều lần nói: “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[18].
Thứ ba, đoàn kết
trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn
với đấu tranh, tự phê bình và phê bình. Vì “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải
nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết,
vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”[19].
Thứ tư, đoàn kết
trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân
trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi
lực lượng. Người viết: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng
đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân
ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương
lai chắc sẽ vẻ vang”[20].
4. Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
trước hết, cần tuyên truyền, vận động
nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng đúng nguyện vọng, quyền lợi của
nhân dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động phải phù hợp
với từng đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo. Trong kháng chiến chống Pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cương lĩnh tuyên truyền phải hết sức giản đơn,
ai ai cũng hiểu được, nhớ được. Đoàn kết, đánh địch, cứu nước, chỉ 6 chữ ấy
thôi là đủ rồi”[21].
Thứ hai, phải chăm
lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng cộng sản là
hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng phải đề ra được đường lối đúng đắn. Trong Đảng đoàn kết, thống nhất từ tư
tưởng đến hành động; có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh; thực hiện tốt các nguyên
tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Mỗi đảng viên phải thật sự là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân.
Về Nhà nước: Đảng phải làm cho
Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Không ngừng cải cách bộ máy hành
chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước quản lý bằng pháp luật. “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ
trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[22].
Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, đường lối thiết thực, rõ
ràng; hình thức tổ chức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp,
các ngành, các giới, các dân tộc, tôn giáo… để toàn dân tộc có thể tham gia xây
dựng và thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
5. Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc
và là đức tính cơ bản của người cách mạng
Coi
đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước,
theo chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức
tính cơ bản của người cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần
chúng và các đồng chí của mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ.
Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[23]. Sinh thời, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: học tư tưởng, đạo đức đoàn kết Hồ Chí Minh là “Gột
rửa tất cả cái gì có thể chia rẽ chúng ta, trau dồi tất cả cái gì thắt chặt chúng
ta”[24]. Trước hết, cần
trau dồi những phẩm chất đạo đức cần thiết cho đại đoàn kết toàn dân tộc.
Về
tư tưởng “Đoàn kết toàn dân tộc gắn với
đoàn kết quốc tế”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quan
sơn muôn dặm một nhà/Vì trong bốn biển đều là anh em”[25]. Người cho biết: “Đảng
chúng tôi luôn luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên và cho quần chúng nhân dân lòng yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế
vô sản”[26]. Và, sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai”[27]. Bởi vậy, cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta cần có tinh thần quốc tế trong sáng.
Đối với toàn Đảng,
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Ngày nay, sự
đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt
chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”[28]. Để đoàn kết nhất
trí, cán bộ lãnh đạo phải cần, kiệm,
liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục
vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của
Nhà nước.
Đối với mỗi đảng viên, Người cho rằng,
muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên… “Đồng chí ta, tuy
có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những
người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung
khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết”[29].
Đối với toàn thể
nhân dân Việt Nam,
Người kêu gọi “tất cả dân ta đều Thi đua:
Cần, Kiệm, Liêm, Chính” và giải thích: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người. Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ
mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu
quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới.
Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và
giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái…”[30].
Song song với việc xây những đức tính tốt để
đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, phải chống những
cái xấu, những căn bệnh gây chia rẽ, mất đoàn kết.
Thứ nhất,
phải chống bệnh hẹp hòi. “Bệnh này rất
nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải. Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn
dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá
nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, … đều
do bệnh hẹp hòi mà ra!”[31]. Từ hẹp hòi mà
sinh ra kéo bè kéo cánh, bè phái. “Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với
mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho
nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc
hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống.
Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất
nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân
ái, đoàn kết giữa đồng chí”[32].
Thứ hai, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Những người có tư tưởng
này, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ
muốn “mọi người vì mình”. Do chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ, đảng viên sa vào tham
ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa; tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành; tự
cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, xa rời thực tế, quan liêu,
mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền. Người chỉ rõ: “Do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật,
kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng
và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”[33].
Để
thực hiện được chiến lược đại đoàn kết dân toàn dân tộc, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước mới thành công, Người khẳng định, “ta phải ra sức đề phòng những
kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó” và giải thích: “mỗi chứng bệnh
là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên
ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại
từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết
những chứng bệnh đó”[34].
6. Phong Cách Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc
Hồ Chí Minh suốt đời kiên tâm thực hiện đại
đoàn kết. Bản thân Người cũng chính là hình ảnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo
Bác, để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, thì toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ,
đảng viên cần có phong cách lãnh đạo: “Kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”[35]. Họ phải là: “Những
người mà:
-
Giàu sang không thể quyến rũ,
-
Nghèo khó không thể chuyển lay,
Người
khẳng định, Đảng ta với phong cách vì dân, vì nước nên: “không sợ kẻ địch nào dù
cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề, nguy hiểm đến mấy,
nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung
thành của nhân dân”[37] để đại đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ
và giàu mạnh.
Bằng cách nào để
toàn Đảng đoàn kết, nhất trí? Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp cơ bản là: “Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất
để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng
chí thương yêu lẫn nhau”[38].
Đối với cán bộ
lãnh đạo, đảng viên,
cần học và làm theo phong cách làm việc quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để
tập hợp, đoàn kết toàn dân. Chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng,
chăm lo đời sống của nhân dân. Tin vào dân, tôn trọng dân, chú ý lắng nghe và
giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân, sẵn sàng tiếp thu ý kiến
dân phê bình và kịp thời sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót. Giáo dục, lãnh
đạo nhân dân, đồng thời không ngừng học hỏi kinh nghiệm của nhân dân. Biết biến
quyết tâm của Đảng, Nhà nước thành quyết tâm của nhân dân. “Phải làm đúng những
điều đó mới xứng đáng là người đày tớ trung thành của nhân dân, người cán bộ tốt
của Đảng và Chính phủ”[39].
Đối với toàn thể
nhân dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào ta ai cũng cần có phong cách thân ái,
khoan hồng độ lượng, thương yêu lẫn nhau, mới đoàn kết được toàn dân tộc. “Năm
ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay”[40]. Tinh thần yêu nước,
đoàn kết của các tầng lớp nhân dân cần được thể hiện trong các phong trào thi
đua ái quốc. Mỗi giới lại cần có phong cách làm việc thiết thực của chính mình:
“Các cụ phụ lão
thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc,
Các cháu nhi đồng
thi đua học hành và giúp việc người lớn,
Đồng bào phú hào
thi đua mở mang doanh nghiệp,
Đồng bào trí thức
và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh,
Nhân viên Chính phủ
thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân,
Bộ đội và dân quân
thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng”[41]. Như vậy thì kháng chiến, kiến quốc nhất định thành
công.
Với đồng bào các
tôn giáo,
phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào ta
không phân biệt lương, giáo, hãy làm theo gương của các bậc sáng lập Đạo mà
đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng là
để giữ gìn quyền tôn giáo tự do. Bác cũng khẳng định đạo đức tôn giáo có giá trị
nhân văn, phù hợp với đạo đức của xã hội.
“Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa”.
Theo
Người: “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến
cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ
quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại
bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”[42].
Đối với đồng bào
các dân tộc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các dân tộc
đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em”[43]. Ngày nay, chế độ
ta là chế độ dân chủ. Đồng bào tất cả các dân tộc đều cần có phong cách làm việc
của người chủ nước nhà.
II. Tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh
1. Xây dựng Đảng
Cộng Sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống
chính trị
Về vai trò, nhiệm
vụ của Đảng Cộng sản cầm quyền, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh trước hết
“phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[44]. Sự ra đời, tồn tại
và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã
hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh trong quá
trình chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến
như Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua hệ thống
chính quyền, Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhiệm
vụ của Đảng “có thể đúc lại trong mấy chữ là làm cho nước Việt Nam ta: ĐỘC LẬP
- THỐNG NHẤT - DÂN CHỦ - PHÚ CƯỜNG”[45].
Về bản chất của Đảng
Cộng sản cầm quyền,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu: Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng mang bản chất giai cấp công
nhân, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, có đầy đủ phẩm chất
và năng lực lãnh đạo thực hiện những mục tiêu cách mạng. Đảng lãnh đạo nhân dân
Việt Nam giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, nhưng là quyền do
nhân dân ủy nhiệm, nhân dân mới thực sự là chủ. Đảng cầm quyền vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân. “Đảng phải thật sự là đội
tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân
lao động và của cả dân tộc”[46].
Về phương thức
lãnh đạo của Đảng,
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, bằng công tác
cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát và bằng sự tiên phong, gương mẫu của đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng Đảng là
quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Để hoàn thành sứ mệnh của đảng cộng sản
cầm quyền, cần tập trung xây dựng Đảng trên các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức
và đạo đức. Trong đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một yêu cầu tất yếu,
khách quan. Bởi xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên
tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện
khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng
trách trước giai cấp và dân tộc.
Với
chủ trương trước hết phải xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận
hợp thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp,
giữ các chức vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội,
cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ
chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường
xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng. Việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch nhân
cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
Công tác xây dựng
Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm: Xây dựng Đảng về chính trị; xây dựng
Đảng về tư tưởng; xây dựng Đảng về tổ chức; xây dựng Đảng về đạo đức.
(1) Xây dựng Đảng
về chính trị và xây dựng Đảng về tư tưởng: Phải dựa vào lý luận khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị và tư
tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền và vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Đảng
phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những
vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo. Việc thực hiện thắng lợi các nghị quyết
của Đảng sẽ làm sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, làm cho đường lối của
Đảng ngày càng hoàn thiện.
Nội
dung xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng bao gồm: đường lối chính trị, bảo vệ
chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng
chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị… Trong đó,
đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng cần phải thường xuyên giáo dục đường lối,
chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên
định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
(2) Xây dựng Đảng
về tổ chức:
Về hệ thống tổ chức
đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ thống
tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thực chặt chẽ, có tính kỷ luật
cao. Sức mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ chức có chức
năng, nhiệm vụ riêng. Trong hệ thống đó, chi bộ đóng vai trò là hạt nhân, quyết
định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và giám
sát đảng viên; có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần
chúng nhân dân.
Về công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Người
nhận thức rõ vị trí, vai trò của người cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp cách mạng.
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là
cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[47].
Theo
Người, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công
việc chung của chúng ta”[48]. Vì vậy, Người
yêu cầu: “Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần
chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy có xứng
với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc.
Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không
biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại”[49].
(3) Xây dựng Đảng
về đạo đức:
Đảng
là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều
xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức
cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài”. Không như vậy, Đảng sẽ
rơi vào thoái hóa, biến dạng, tha hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ. Xây
dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục
và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc
biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng.
Đưa
ra tiêu chí của một người cán bộ tốt là phải vừa có đức, vừa có tài, Người nhấn
mạnh, trong đó, đạo đức là gốc: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân”[50].
Do
vậy, để xây dựng Đảng thực sự đạo đức, văn minh, cần nắm rõ 3 nguyên tắc:
Một là, những chuẩn mực đạo
đức cần có của tổ chức Đảng: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, chống
giáo điều và xa rời nguyên tắc. Trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân, dân tộc Việt Nam và của loài người. Đảng gắn bó với dân, là người
lãnh đạo đồng thời là người đày tớ trung thành của nhân dân.
Hai là, những phẩm chất đạo
đức cách mạng cần có của cán bộ, đảng viên: Trung với nước hiếu với dân; cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư; yêu thương, quý trọng con người; có tinh thần quốc
tế trong sáng.
Ba là, những nguyên tắc,
biện pháp xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng: Nói đi đôi với làm, nêu gương
đạo đức; tu dưỡng đạo đức suốt đời; xây dựng đạo đức đi đôi với chống lại những
hiện tượng phi đạo đức.
Các nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt đảng
gồm 5 nguyên tắc: Nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách; nguyên tắc tự phê bình và phê bình; nguyên tắc kỷ luật nghiêm
minh, tự giác; nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.
(1) Nguyên tắc tập
trung dân chủ
là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng, thể hiện sự thống nhất biện
chứng giữa “tập trung” và “dân chủ”. Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên nền
tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu
không có sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán, chuyên quyền
và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật.
(2) Nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo hay chế chế độ
lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này có hai mặt gắn bó mật thiết với nhau, tập thể
lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách là dân chủ tập trung. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Vì sao cần phải
có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh
nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một
vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy,
cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt
này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem
xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp
mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”. Cá nhân phụ
trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, định kế hoạch rõ ràng, giao
cho một người hoặc một nhóm người phụ trách kế hoạch mà thi hành để xác định rõ
nhiệm vụ và phát huy vai trò của mỗi cá nhân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lãnh
đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả
là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn,
vô chính phủ. Kết quả cũng hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau”[51].
(3) Nguyên tắc tự
phê bình và phê bình
là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Ý nghĩa của
nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã hội mà ra nên có những căn bệnh
trong xã hội lây ngấm. Cán bộ, đảng viên cũng là con người, cũng có cái tốt, xấu,
thiện, ác trong lòng. Vì vậy, tự phê bình và phê bình giống như việc rửa mặt
hàng ngày, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở, phần xấu mất dần đi. Tự
phê bình và phê bình là thuốc đắng nhưng giã tật. Nếu không tự phê bình và phê
bình sẽ như người có bệnh mà không uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là
một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những
cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi
tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”[52].
Tự
phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ. Đó
cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng,
giữ vững và củng cố uy tín của Đảng. Trong phê bình và tự phê bình, phải thật
thà, thẳng thắn, không nể nang, giấu giếm, không thêm bớt khuyết điểm. Cán bộ
chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình, phê bình. Tuyệt đối chống
các biểu hiện như: thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê
bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc lợi dụng phê
bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
(4) Nguyên tắc kỷ
luật nghiêm minh, tự giác. Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn
đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu tự thân đối
với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng
viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự
gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà
nước, của đoàn thể nhân dân.
Sức
mạnh của một tổ chức đảng và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ
luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi
tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước
pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
(5) Nguyên tắc
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở
lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin; Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; đường lối,
quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp.
Bác
căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[53]. Có đoàn kết tốt
thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng
ta tuy nhiều người, nhưng
khi tiến đánh thì chỉ như một người”[54].
Vì vậy,
muốn đoàn kết thống nhất, phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác.
2. Xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng
2.1. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, nhà nước do dân và nhà nước
vì dân, được thể hiện ở những nội dung như sau:
Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền
lực nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân lao động làm chủ
nhà nước tất yếu dẫn đến hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước. Cử tri
bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề
quốc kế dân sinh.
Nhà nước do dân là nhà nước do
dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là
việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”.
Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi
ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Tất cả đều vì lợi ích của nhân dân;
ngoài ra, không có bất cứ một lợi ích nào khác. Một nhà nước vì dân là từ Chủ tịch
nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân.
Mọi công chức, từ nhân viên đến Chủ tịch nước đều do dân ủy thác cho và phải phục
vụ nhân dân.
Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, bản chất giai
cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam mới thể hiện ở các đặc điểm sau: (1)
Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. (2) Nhà nước bảo đảm tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của sự phát triển đất nước. (3) Nguyên tác tổ chức và hoạt động cơ bản
là tập trung dân chủ.
Xây dựng Nhà nước
có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ: Hoạt động quản lý nhà nước phải bằng Hiến pháp, pháp
luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước dân
chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật vì pháp luật là “bà đỡ” cho dân chủ. Dân
chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Mọi quyền dân chủ của
người dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật; ngược lại, hệ thống
pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng
trong thực tế.
Người
cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo
đảm việc thực thi quyền lực của nhân dân, trong đó, khẳng định vai trò của pháp
luật là: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”[55]. Người thường chỉ
rõ những tiêu cực và
nhắc nhở mọi người đề phòng, khắc phục những tệ nạn trong
bộ máy nhà nước: đặc quyền, đặc lợi; tham ô,
lãng phí, quan liêu; tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo... Cùng với đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao vai trò nêu gương
của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp. Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức đủ đức và tài bao gồm những yêu cầu sau: (1) Tuyệt đối trung
thành với cách mạng. (2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp
vụ. (3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. (4) Cán bộ, công chức phải
là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là
trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Phải thường
xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh,
trong sạch của Nhà nước.
2.2. Xây dựng Mặt trận dân tộc và các đoàn thể chính
trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội
Quan
điểm nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát
huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền
lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân
tộc và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân
tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở
thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội. Quan điểm này được
Người thể hiện rõ: “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã
phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta...
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của
cách mạng Việt Nam”[56].
Đối với xây dựng Mặt
trận dân tộc,
Hồ Chí Minh quan niệm, trong việc xây dựng nền dân
chủ ở Việt Nam, cần chú trọng việc xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh
chính trị
tự
nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát
triển đất nước, xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân
dân. Mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết lực lượng toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi “Mục đích phấn đấu của Mặt trận dân tộc
thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh”[57]. Mặt trận dân tộc
thống nhất là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng, Nhà nước ta.
Theo
đó, Cương lĩnh của Mặt trận dân tộc thống nhất phải là Cương lĩnh đại đoàn kết
toàn dân tộc. Mặt trận tập hợp, đoàn kết rộng rãi tất cả những người Việt Nam
yêu nước,
không phân biệt giai cấp, tầng lớp xã hội, đảng phái, xu hướng chính trị, dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo...
Đối với các
đoàn thể chính trị - xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định:
“-
Đoàn Thanh niên Lao động phải là cánh
tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ thanh niên và nhi đồng
thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
-
Công đoàn phải thật sự trở thành trường
học quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và văn hóa của giai cấp công nhân nước
ta.
-
Hội Liên hiệp Phụ nữ phải là lực lượng
mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo phụ nữ tiến lên chủ nghĩa xã hội”[58].
-
Hội Nông dân có nhiệm vụ: “Làm cho
nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình, làm
cho nông dân vào Hội nông dân cứu quốc cho đông để phấn đấu cho mục đích của
mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc”[59].
3. Đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng
Hồ Chí Minh suốt một đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng, quan tâm rèn luyện Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong
quá trình chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng, Người không chỉ quan tâm đến
việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn rất quan tâm giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ nòng cốt của Đảng về đạo đức, tư cách người cách mạng. Từ năm 1927,
trong 23 điểm nêu trong cuốn Đường Kách mệnh,
Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiều phẩm chất đạo đức cần có đối với người cách mạng,
như: Cần kiệm; Hòa mà không tư; Cả quyết sửa lỗi mình; Cẩn thận mà
không nhút nhát; Nhẫn nại (chịu khó); Vị công vong tư; Không hiểu danh, không
kiêu ngạo; Nói thì phải làm; Hy sinh; Ít lòng tham muốn về vật chất; Khoan thứ;
Có lòng bày vẽ cho người; Trực mà không táo bạo; Quyết đoán; Dũng cảm...
Xác
định đúng đắn đường lối chiến lược giải phóng dân tộc để Đảng hoàn thành nhiệm
vụ lãnh đạo nhân dân đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến,
xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, trong giai đoạn 1930-1945, Người đã kiên
định thực hiện đường lối chiến lược đó, mang lại thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Sau khi thành lập chính quyền
dân chủ nhân dân, với cương vị người đứng đầu, Người cùng với Đảng chèo lái con
thuyền cách mạng trong điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp những năm 1945-1946,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Với
đường lối “kháng chiến, kiến quốc”, “thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta lãnh đạo nhân dân đánh thắng chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong phạm vi cả nước; cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong
cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ đó, có lúc Đảng gặp sai lầm, Hồ Chí
Minh đã nhận trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Người đặt mình trong tập thể,
nguyện trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng “cả khi phải ẩn nấp nơi núi
non, ra vào nơi tù tội không bao giờ xa rời mục tiêu đó”, “nguyện đi cùng với đồng
bào, dù phải hy sinh tính mạng cũng không nề”...
Tấm
gương mẫu mực của Người về phẩm chất, tư cách, suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng được thể hiện nổi bật ở các điểm sau:
Một là, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt Đảng.
Là
người thành lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn gương mẫu, trung thực, trách nhiệm,
thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng,
coi kỷ luật Đảng là kỷ luật nghiêm minh và tự giác, quan
tâm đến việc thực hành dân chủ trong Đảng. Người xác
định rõ trách nhiệm cá nhân, nêu cao tinh thần “phụ trách”
trước Đảng, trước dân tộc và nhân dân.
Hai là, tấm gương
luôn tự rèn luyện, trau dồi phẩm chất, năng lực, đạo đức,
lối sống, tác phong của một đảng viên.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn giữ vững, rèn luyện ý chí, quyết
tâm thực hiện nhiệm vụ với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do!”[60]; trách nhiệm
trung thành với Đảng, Nhà nước, hiếu với nhân dân.
Khổ
luyện, tiếp thu các giá trị văn hóa, tự hoàn thiện nhân cách, không ngừng học tập
để có tri thức, nâng cao tầm trí tuệ, Hồ Chí Minh
đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh là
Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Rèn
luyện, giữ vững đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; tấm lòng nhân
ái, thủy chung, son sắt; lối sống giản dị, thiết thực, hòa đồng, làm chủ bản
thân và luôn hướng tới những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ.
Rèn
luyện để có tác phong gần dân, hiểu dân, vì dân; gương mẫu trong cuộc sống hàng
ngày.
Chăm
lo xây dựng Đảng ta thành một Đảng đạo đức,
văn minh với những chuẩn mực được xây dựng từ mỗi tổ chức đảng cho đến từng
cán bộ, đảng viên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh là Đảng Cộng sản cầm quyền phải
trong sạch, vững mạnh. “Đảng không phải chỉ đại biểu lợi ích của đảng viên, mà
đại biểu lợi ích của toàn giai cấp công nhân, toàn thể dân tộc và loài người”[61]. Đảng phải kiên định
bảo vệ nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Cán bộ, đảng viên phải học tập
lý luận Mác-Lênin mới
củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và
trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình. Người căn
dặn, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, “Đảng ta là một đảng cầm quyền... Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”[62].
Người
cũng nêu rõ, chuẩn mực đạo đức đầu tiên cần có của cán bộ, đảng
viên là trung với Đảng, với Nước, hiếu với Dân. “Quyết tâm suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất... Đặt lợi ích của Đảng và của
nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng
hết sức phục vụ nhân dân”[63]. Điểm cốt lõi
trong đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư. “Quyết tâm tẩy bỏ cho kỳ hết bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí”[64].
Cán bộ, đảng viên cũng cần có phẩm chất yêu
thương, quý trọng con người, phát huy truyền thống yêu nước thương nòi của
dân tộc, sống có tình có nghĩa, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình
nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”[65].
Để
các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện được các phẩm chất đạo
đức cách mạng nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh định ra 3 nguyên tắc:
Một là, xây đi đôi
với chống.
Xây cái tốt, nâng cao đạo đức cách mạng. Chống cái xấu, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. “Xây tốt thì chống mới tốt. Chống tốt thì xây mới tốt”[66].
Hai là, nói đi đôi
với làm, gương mẫu đạo đức. Từ mỗi tổ chức đảng cho đến mỗi cán bộ, đảng viên đều
cần đã nói thì phải làm. “Nói cái gì phải cho tin - nói và làm cho nhất trí”[67].
Ba là, tu dưỡng đạo
đức hàng ngày, suốt đời. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[68].
4. Đạo đức Hồ
Chí Minh trong xây dựng hệ thống chính trị
4.1. Kết hợp đạo đức
với pháp luật xây dựng bộ máy nhà nước liêm chính phục vụ Tổ quốc và nhân dân
có hiệu quả
Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cách mạng đã xóa bỏ kiểu chính phủ cai trị dân của đế quốc,
phong kiến. Nay Đảng phải xây dựng chính phủ kiểu mới hoạt động theo pháp luật
và trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức cách mạng. “Chính phủ là công bộc của dân
vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu
tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt
quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại
cho dân thì phải tránh”[69].
Chính phủ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
thì phải liêm chính, biết làm việc. Được Quốc hội giao trách nhiệm thành lập Chính
phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tuy trong quyết định không nói đến,
không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi
cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ
sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết. Theo lời quyết nghị của Quốc hội,
Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi
vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của
nước nhà”[70].
Để
xây dựng Chính phủ liêm chính, hành động
có hiệu quả, Người nêu rõ: “Cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu
mẫu cho dân. “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì
“quan” dù không liêm, cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của
mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM. Pháp luật
phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì”[71].
Nhà nước cần biết
cách làm cho người dân thực sự có quyền lực, mở rộng dân chủ để dân tham gia hoạch
định chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, Hiến pháp nước ta cần có nội dung: “Nhà nước ta phải
phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính
tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực
sự tham gia quản lý công việc Nhà nước”[72].
Để bộ máy nhà nước
trong sạch, thật sự phục vụ nhân dân, mỗi công dân cần phải kiên quyết đấu
tranh chống tham ô, lãng phí và nâng cao cảnh giác đề phòng địch phá hoại. “Các
cơ quan phụ trách cần phải nghiêm khắc ngăn ngừa tham ô, lãng phí và kịp thời
thi hành kỷ luật đối với những kẻ ngoan cố không chịu sửa đổi”[73].
4.2. Định hướng
xây dựng đạo đức trong Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị - xã
hội
Chủ
tịch Hồ Chí Minh vạch rõ định hướng phấn đấu của các cán bộ, đảng viên, đoàn
viên trong Mặt trận và các đoàn thể, đó là: Cán bộ, đảng viên của Mặt trận phải
thông suốt và thực hiện đúng chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời phải giải
thích cho mọi người hiểu thật thấu và làm cho đúng. Phải đi đường lối nhân dân,
không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân.
“Công đoàn phải giáo dục cho công nhân về
đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng… công nhân phải hiểu mình là chủ xí nghiệp,
chủ nước nhà, hiểu lao động là vẻ vang, phải giữ gìn của công, chống tham ô
lãng phí, phải bảo vệ kỷ luật lao động, phải thi đua làm tốt, nhiều, mau, rẻ. Cải
thiện sinh hoạt phải dựa trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm”[74].
Hội Nông dân thì phải tổ chức nông
dân thật chặt chẽ. Đoàn kết nông dân thật khăng khít. Huấn luyện nông dân thật
giác ngộ. “Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ
quốc”[75].
Đoàn Thanh niên cần làm đầu tàu, làm
gương mẫu trong phong trào thi đua yêu nước. Phải thực hiện khẩu hiệu “Đâu Đảng
cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”[76]. “Nhiệm vụ của thanh niên là ra sức giúp Đảng
xây dựng chủ nghĩa xã hội”[77]. “Đoàn Thanh niên Lao động cần phải phụ
trách: Việc tổ chức và giáo dục cho tốt các cháu nhi đồng, chuẩn bị cho các cháu ấy mai sau trở nên những đoàn viên
tốt. Việc đẩy mạnh phong trào đời sống mới
một cách thiết thực và liên tục, từ việc nhỏ đến việc to”[78].
Hội
Phụ nữ thực hiện các nhiệm vụ là: (1) Thắt chặt mối đoàn kết giữa các tầng lớp phụ nữ trong nước, giữa phụ nữ Việt Nam
và phụ nữ các nước bạn cùng phụ nữ dân chủ thế giới. (2) Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, hăng hái
tham gia phong trào chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. (3) Hăng hái tham gia chính quyền. (4) Giúp đỡ bộ đội. (5) Bảo vệ nhi đồng[79].
5. Phong cách Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch vững mạnh
Để phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng xây dựng phong cách lãnh đạo dân chủ, quần chúng và phong cách
lãnh đạo nêu gương cho cán bộ, đảng viên.
Về phong cách lãnh
đạo dân chủ, quần chúng, Người chỉ rõ: “Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng
dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học
hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần
chúng. Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ họ phát triển, khen ngợi
cho họ thêm hăng hái”[80]. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái”
ba điều này có mối quan hệ gắn bó với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần
chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó
càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Cán bộ lãnh đạo không nên tự
tôn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới và nhân dân. Phong cách
lãnh đạo dân chủ, quần chúng là khiến cho
cấp dưới và nhân dân cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến. Khiến cho cán bộ có gan
phụ trách, có gan làm việc. Toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên muốn
đoàn kết, phục vụ nhân dân phải gần dân, được lòng dân, nghe theo dân. Lãnh đạo
là dìu dắt nhân dân. Xa nhân dân thì không đoàn kết, lãnh đạo được nhân dân.
Về phong cách lãnh
đạo nêu gương cho cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là một phong cách lãnh đạo nhân văn và hiệu quả.
Là tấm gương sáng nhất, Người chỉ dẫn: Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho
Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho
quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành. “Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi
hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt
chước, làm theo. Mà muốn cho quần chúng nghe theo lời mình, làm theo mình, thì
người đảng viên, từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu. Thế là làm
cho dân tin Đảng, phục Đảng, yêu Đảng và làm theo chính sách của Đảng và của Chính
phủ”[81].
Để làm cho bộ máy
Nhà nước Việt Nam thật sự phục vụ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây
dựng phong cách tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và phong cách ứng xử chân
thành cho cán bộ, đảng viên.
Về phong cách tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đây là phong cách lãnh đạo cơ bản nhất của
chính quyền dân chủ. Việc xây dựng phong cách này nhằm đảm bảo thực hiện hiệu
quả nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mỗi cá nhân,
tập thể đều phải nêu cao nguyên tắc, xây dựng phong cách tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, mọi việc đều đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên, có như vậy mới
phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Về phong cách ứng
xử chân thành cho cán bộ, đảng viên, đây là phong cách để phát huy tinh thần
đoàn kết, cán bộ, công chức nhà nước. Theo đó, mỗi cá nhân cần phải học và làm
theo phong cách ứng xử Hồ Chí Minh: Khiêm tốn, nhã nhặn, tôn trọng nhân dân. Chân
tình, nồng hậu, tự nhiên với nhân dân như trong một đại gia đình. Xóa đi bức tường
ngăn cách giữa cán bộ lãnh đạo với nhân dân. Từ đó, mới đoàn kết được toàn Đảng,
toàn dân.
Toàn bộ hệ thống
chính trị: Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm
công tác tham mưu, thực hiện dân vận khéo, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng
và nhân dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: Dân vận không thể chỉ dùng báo chương,
sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Dân vận và công tác
dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng
nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố,
tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, công tác dân vận bao gồm những nội dung sau:
Trước hết, là phải tìm mọi
cách giải thích cho người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm
vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kì được.
Thứ hai, là bất cứ việc
gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt
kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn
dân ra thi hành.
Trong
lúc thi hành phải theo dõi, đôn đốc, khuyến khích dân. Thi hành xong, phải cùng
dân kiểm tra lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.
Cán
bộ chính quyền, đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, phân chia
công việc rõ rệt, giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân lên kế hoạch tổ
chức, sắp xếp việc làm, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những khó khăn, vướng
mắc. Hội viên của các đoàn thể phải xung phong thi đua, làm mẫu cho dân, giúp
dân làm theo.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định, phong cách dân vận khéo có vai trò quyết định
thành công trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người nhấn mạnh: “Những người phụ trách dân vận cần phải
óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc… Lực lượng
của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém.
Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[82].
Để
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, quần chúng
nhân dân đóng vai trò quan trọng. Nói về mối quan hệ giữa Đảng ta với nhân dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Xây dựng về tư tưởng, về chính trị, về tổ
chức, đó là đường lối xây dựng Đảng.
Đó không những là công việc của Đảng và của đảng viên mà cũng là của toàn dân
ta. Nhân dân giúp xây dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng hộ Đảng, hưởng ứng
những lời kêu gọi của Đảng, ra sức cho Đảng rõ tình hình trong nhân dân, đối với
công tác của Đảng thì thật thà phê bình và nêu ý kiến của mình. Đảng viên thì
phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng”[83].
Thực tế, ở nơi nào niềm tin của người dân vào
chính quyền, cấp ủy đảng mạnh mẽ thì ở đó vai trò, trách nhiệm của quần chúng
nhân dân trong xây dựng Đảng được phát huy cao độ. Vì vậy, cần đặc biệt chú trọng
vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng thông qua Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể. Thực hiện hiệu quả Quy định về Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền, ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị khóa XI ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư khóa XII về
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán
bộ chủ chốt và cán bộ đảng viên.
III. Bài học lịch
sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
1. Bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam 90 năm qua là hiện thực sinh động khẳng định nội dung
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bài học,
nguyên tắc căn bản trong đường lối cách mạng của Đảng. Sự đoàn kết, đồng lòng của
cả dân tộc chính là nguồn lực mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua nhiều thời điểm khó
khăn, khắc nghiệt, để lại những dấu ấn hào hùng trong lịch sử dân tộc và lịch sử
thế giới.
Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Ngay từ khi Đảng mới ra đời, Đảng đã
chủ trương đoàn kết mọi lực lượng thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra sự cần
thiết phải xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng,
khơi dậy lòng yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thời
kỳ cách mạng 1930-1945, tổ chức mặt trận dân tộc đã được Đảng ta thiết lập,
lãnh đạo. Qua từng giai đoạn, mặt trận có những hình thức và tên gọi khác nhau
phù hợp với yêu cầu cách mạng. Đặc biệt, năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Việt
Nam, chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I, phân tích
tình hình trong nước và thế giới, quyết định tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh
các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, lần thứ bảy, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cao hơn hết thảy, thành lập Mặt trận Việt
Minh, chủ trương “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn
giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để
đánh đuổi Pháp - Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở[84].
Việc
giác ngộ, rèn luyện quần chúng đấu tranh của Đảng, sức mạnh của quần chúng đã
được tập hợp và phát huy trong một mặt trận. Trong cao trào cách mạng 1930-1931,
cuộc vận động chắp nối, khôi phục cách mạng 1932-1935, phong trào dân chủ 1936-1939,
hàng triệu quần chúng đã được huy động tham gia biểu tình, trở thành lực lượng
chính trị đông đảo cho cách mạng. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945,
tinh thần đấu tranh của quần chúng được đẩy lên đỉnh điểm, đâu đâu quần chúng
cũng bí mật rèn vũ khí, may cờ, đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám
(1945). Khẳng định về thành công của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết: “Chính là sự đoàn kết, đoàn kết hoàn toàn và không gì phá vỡ nổi của
toàn thể nhân dân chúng ta đã khai sinh ra nước Cộng hòa của mình”[85].
Thời
kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc (1945-1975), truyền thống đoàn kết của
dân tộc được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của
dân tộc. Khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được mở rộng và tiếp tục phát triển,
góp phần động viên toàn dân lập nên Chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và những thắng lợi của nhân dân hai
miền Nam-Bắc, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, chấm dứt 21 năm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975).
Trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới toàn diện đất nước (1975 đến nay),
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục nêu cao chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong
một mặt trận thống nhất Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tư tưởng “đại đoàn kết”, “lấy
dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt
các kỳ Đại hội của Đảng, được coi là nhân tố quan trọng trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã
tổng kết 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam, trong đó có bài học: “Không ngừng
củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết
dân tộc, đoàn kết quốc tế”[86]. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc
là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn
trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc”[87].
Nhận
thức đầy đủ và sâu sắc tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhiệm vụ thường
xuyên và lâu dài. Khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là bài học có tính quy
luật, là đường lối chiến lược, là nguồn lực to lớn quyết định sự nghiệp cách mạng
Việt Nam.
2. Bài học về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng
muốn làm cách mạng, quần chúng phải được giác ngộ, tổ chức rèn luyện dưới sự
lãnh đạo của một chính Đảng. Nhận thức rõ điều này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã
tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng
định: Đảng có vững, cách mạng mới thành công. Phải xây dựng Đảng thành một Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác–Lênin, phấn đấu
vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích
nào khác. Đảng một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Lịch sử
phát triển Đảng trong những chặng đường qua đã cho thấy, Đảng ta với tư cách là
hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Do vậy, Đảng và hệ thống chính trị phải thật sự trong sạch,
vững mạnh. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã
chỉ rõ: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo[88].
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong
đó nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ”[89].
Cụ
thể hóa nhiệm vụ trên, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết
Trung ương 4 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết Trung ương 6 về “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ”; Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về “Trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Bài
học về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là bài học không
bao giờ là cũ, được coi là nguyên tắc cốt tử đối với sự phát triển, tồn vong của
Đảng. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, liên minh giai cấp công - nông - trí thức
là lực lượng nòng cốt, hợp tác giữa công - nông - trí thức và doanh nhân là một
động lực cho tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lấy
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm động lực phát triển,
đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tộc tạo khí thế mới, động lực mới, quyết tâm đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững.
Từ
thực tiễn công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời gian qua, rút
ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định bản chất
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, giữa đổi mới chính trị và đổi
mới kinh tế.
Ba là, kết hợp giữa
“xây” và “chống”. “Xây” là công việc thường
xuyên, cơ bản, lâu dài, xuất phát từ nhu cầu không ngừng hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm
cầm quyền, Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. “Chống” là nhiệm vụ quan
trọng, cấp bách, bởi trước tình trạng suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, phải có giải pháp đủ mạnh, xứng tầm để ngăn chặn, đẩy lùi, tạo môi trường
cho phát triển bền vững.
Bốn là,
đi đôi với giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng, phát
huy đầy đủ tính chủ động, tích cực của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị.
Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc,
là nhân tố quyết định bảo đảm thành công của xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị.
Năm là, huy động, lôi cuốn,
phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, phải
“đưa chính trị vào giữa dân gian”[90]. Có nhiều kênh
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó cần đặc biệt coi trọng vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
Phần thứ hai
ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO
ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH NHẰM TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC; XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU GIAI
ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI
I. Những vấn đề đặt
ra về đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh trong tình hình hiện nay
1. Những vấn đề đặt ra về đại đoàn kết toàn dân tộc
Thực
hiện đường lối đổi mới đúng quy luật, đầy sáng tạo, hợp lòng dân do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, ý thức
tự tôn dân tộc, nhân dân ta đã vượt qua bao khó khăn, thách thức, giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển và bước vào hàng ngũ những nước đang phát triển có mức thu nhập
trung bình. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; độc lập, chủ quyền
quốc gia, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững;
vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; sức mạnh tổng
hợp của đất nước được tăng lên gấp nhiều lần, tạo tiền đề cho nhân dân ta tiếp
tục phấn đấu xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Đảng
và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết
toàn dân tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, về người Việt Nam ở nước ngoài,
từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách và ngày càng thể
hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện những nghị
quyết nêu trên, nhiều cấp ủy đảng đã quan tâm hơn đến sự nghiệp đại đoàn kết, đến
công tác dân vận và công tác mặt trận, củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ,
phương tiện và điều kiện cho công tác mặt trận. Chính quyền ở nhiều cấp, nhiều
địa phương đã thực sự có chuyển biến trong nhận thức và hành động về quan hệ với
nhân dân. Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Nhà nước được
ban hành nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân đã thực hiện có kết quả. Quyền làm
chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội được
thể chế hóa, đã từng bước được phát huy. Sự đổi mới hệ thống chính trị; việc
tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là việc xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào việc động viên nhân dân và cán bộ
hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc
phòng. Đó là những nhân tố rất quan trọng, là động lực chủ yếu bảo đảm sự ổn định
chính trị - xã hội và thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Cùng với những tiến
bộ và chuyển biến nêu trên, nhiều vấn đề mới đã và đang nảy sinh trong quá
trình đổi mới, đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp, nhóm dân cư đang trong quá
trình phân hóa.
Bên
cạnh những thuận lợi nêu trên, cùng với sự chuyển hóa của các giai cấp và tầng
lớp xã hội, xuất hiện sự chênh lệch ngày càng lớn về mức thu nhập và hưởng thụ
giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân… Sự phân hóa giàu nghèo có chiều
hướng gia tăng đã và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc. Những đặc điểm
nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến khối đại đoàn kết. Các thế lực thù địch trong
và ngoài nước đã và đang tiếp tục khai thác những thiếu sót, yếu kém của đất nước
ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã
hội. Vì vậy, tuy đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và
tăng cường, song chưa thật sự vững chắc và đang đứng trước những thách thức
không thể xem thường.
Để
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là nguồn sức mạnh,
là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần làm cho cả hệ thống chính trị,
từng cán bộ, đảng viên, trước hết là các
cấp ủy đảng và người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc đề xướng. Pháp luật phải bảo đảm
để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự làm chủ như Hiến pháp đã quy định.
Thắt
chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và của toàn dân. Do đó, qua hoạt động của mình, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động để góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn luôn
bền chặt, ý Đảng và lòng dân là một. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và quyết định
đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội,
để các chủ trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích của nhân dân.
Kiên
trì thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa, khoan dung, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một xã hội đồng thuận
cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định, phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước.
Có
thể khẳng định, bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng trở nên sống động
và mang tính thời sự, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước
đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá
trình hội nhập ngày một sâu, rộng.
2. Những vấn đề đặt ra về xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay
Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chăm lo xây
dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Từ khi giành được chính quyền, Đảng vừa
là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
ấy. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chi phối tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ,
hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động các tổ chức
của hệ thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo, uy tín, vị thế, địa
vị cầm quyền của Đảng.
Bước
vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt, có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi mới.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị.
Trên
cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất
cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và đã có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị đã giúp giữ vững, kiên định mục tiêu, lý tưởng
cách mạng; kiên định các nguyên tắc nền tảng; tăng cường bản lĩnh chính trị;
nâng cao chất lượng đường lối, chính sách. Công tác tư tưởng, lý luận được tăng
cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội trước những vấn đề lớn
của đất nước, của công cuộc đổi mới; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch; tìm tòi, bổ sung và phát triển lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổ
chức đảng về hệ thống chính trị có bước đổi mới quan trọng, từ thể chế, tổ chức
bộ máy, cơ chế vận hành, đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác phong
công tác; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng chống tham
nhũng, lãng phí; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có tác
dụng quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng
viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt
hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từng bước được đổi
mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả.
Xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo
nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hơn 3 thập niên qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản
Việt Nam trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, nâng cao năng lực
lãnh đạo và cầm quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân,
khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích
nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước.
Tuy
nhiên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm:
Năng lực dự báo, định hướng chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách với đòi hỏi của thực tiễn. Năng lực và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình
hình nhiệm vụ mới. Bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho
tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền
dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hóa, chuẩn
bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Quản lý, giáo dục đảng viên chưa được
quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận
cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức, sức
chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa cao. Chất lượng sinh hoạt đảng,
tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu, thực hiện trách nhiệm nêu
gương của đảng viên nhiều nơi thiếu nền nếp, chưa trở thành ý thức tự giác.
Chưa đạt hiệu quả cao trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng;
chưa phân định rõ vai trò lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân; thực hiện kiểm
soát quyền lực chưa tốt. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” chậm được thể chế hóa một cách đồng bộ. Còn nhiều bất cập trong quản lý
kinh tế - xã hội, để nhiều vụ việc tồn đọng, sai phạm kéo dài, chậm được xử lý,
gây bức xúc trong nhân dân.
Hệ
thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém trong công tác lãnh đạo,
quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan
liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ
đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có nơi nghiêm trọng. Chức năng,
nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch,
trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều
biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.
Để
tiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình
hình hiện nay cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời xây dựng mối
quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ
cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với
dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ
thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc
tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc
thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế
người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao
kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ
cán bộ ở cơ sở chuẩn hóa, có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết
phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với
cán bộ cơ sở.
Trước
yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công nghiệp, hóa
hiện đại hóa đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện
toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
II. Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đảng
ta chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích
chung của quốc gia - dân tộc”[91];
Đề
cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp,
đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
1. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải
quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội
Đại
hội XII xác định: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi
người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của
nhân dân” [92].
2. Chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Đối với giai cấp
công nhân,
“Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân”[93].
Bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện
điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân; sửa đổi,
bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp, để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của công nhân.
Củng
cố, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi,
lợi ích hợp pháp của công đoàn viên, người lao động.
Đối với giai cấp
nông dân:
“Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp
nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp
nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông
dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ”[94].
Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp,
mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch,
y tế, giáo dục, thông tin, cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn;
thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm
giàu hợp pháp.
Đối với đội ngũ
trí thức:
“Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng
lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và
phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo”[95]. Trọng
dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của
trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi
trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu
khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đối với đội ngũ
doanh nhân:
“Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân
lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có
đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao”[96]. Phát huy tiềm năng và vai
trò tích cực, sáng tạo của đội ngũ doanh nhân. Có cơ chế, chính sách bảo đảm
quyền lợi của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp
cho sự nghiệp phát triển đất nước.
3. Chính sách với đồng bào, các giới và lứa tuổi nhằm
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Đối với thế hệ trẻ: “Đổi mới nội
dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng
lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức
tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ”[97]. Có cơ chế, chính sách phù
hợp tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao
động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh
niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công
nghệ hiện đại.
Phát
huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút
rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Đối với phụ nữ: “Nâng cao trình
độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát
triển tài năng”[98].
Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách đối với lao động nữ,
tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình
trong gia đình và xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý
nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ
nữ.
Đối với đội ngũ cựu
chiến binh:
“Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng thời động viên cựu
chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; tích cực tham
gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
cho thế hệ trẻ”[99].
Tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội
phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng
Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Đối với người cao
tuổi:
“Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hóa,
tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc”[100]. Phát huy trí tuệ, kinh
nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội và gia đình. Tiếp
tục xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa
thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”; giúp đỡ người cao tuổi cô đơn
không nơi nương tựa.
Đối với đồng bào
dân tộc ít người:
“Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước
ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng,
tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau
cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”[101].
Nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng
các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc;
nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Đối với đồng bào
tôn giáo:
“Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”[102]. Quan tâm và tạo điều kiện
cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái
quy định của pháp luật.
Đối với người Việt
Nam ở nước ngoài:
“Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế,
góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước;
được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện
để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách
thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước”[103].
III. Xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
1. Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc
Kiên
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển
phù hợp với thực tiễn Việt Nam; Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và chủ trương: “Đoàn kết trong Đảng
là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[104].
Bản
lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp phải được
nâng cao; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Nâng
cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với quy luật
khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị,
phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.
Tiếp
tục thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí
Minh; coi đó là công việc thường xuyên của tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức
chính trị - xã hội các cấp, các địa phương, đơn vị và cần gắn với thực hiện các
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về công tác xây dựng Đảng, nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống
cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm.
Thực
hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của
nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
“Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”[105]. Củng
cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng
lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán
bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, học dân, dựa vào dân,
có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những
kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công nhân”[106].
Tăng cường thực hiện tổ chức trao đổi, đối thoại với nhân dân theo Quy định
11-Qđi/TW ngày 18-02-2019 của Bộ Chính trị về “Trách nhiệm của người đứng đầu cấp
ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến
nghị của dân”.
2. Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa do Đảng lãnh đạo, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị
tinh gọn, có hiệu lực và hiệu quả.
“Bảo
đảm pháp luật vừa là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân
dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp
luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”[107].
Bãi
bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo
đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và
thực thi công vụ của cán bộ, công chức.
Chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu
cầu của giai đoạn mới.
Kiên
quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ,
công chức.
3. Tiếp tục củng cố, tăng cường tổ chức, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Đảng
phân công: “Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân
dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện
xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần
xây dựng bảo vệ Tổ quốc”[108].
Đẩy
mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động,
sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt
Quyết định số 217-QĐ/TW về giám sát và phản biện xã hội và Quyết định số
218-QĐ/TW về tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
IV. Tiếp tục hoàn
thiện, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước
1. Để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, cần “Tiếp tục thể
chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
về đại đoàn kết toàn dân tộc”; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế,
chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn
của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục những
hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tạo sự đồng thuận
xã hội”[109].
2. Để tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong đảng, cần hoàn thiện cơ
chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê
bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường
vụ cấp ủy các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy
vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan
hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân
dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”[110].
3. Để Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân đoàn
kết được toàn dân, cần “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức
thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa”[111].
Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc
hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của
đất nước.
Hoàn
thiện thể chế hành chính dân chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế
giải trình của các cơ quan nhà nước; đẩy nhanh việc áp dụng mô hình chính phủ
điện tử.
“Tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật,
công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”[112].
V. Một số nhiệm vụ
giải pháp cụ thể
1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng,
người đứng đầu và của cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay, nhằm đẩy mạnh công cuộc
đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng
cao đời sống tinh thần, vật chất của các tầng lớp nhân dân.
Các cấp ủy đảng và
người đứng đầu tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc học tập, làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc về công tác dân vận, công tác mặt trận và các đoàn thể[113]. Đưa nội dung lãnh đạo các công tác này thành một
trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các
cấp.
Các cấp ủy đảng và người đứng đầu thường xuyên
tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân
dân. Thực hiện triệt để Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư
khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước
hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương”. Cán bộ, đảng viên phải xung phong, gương mẫu học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đoàn kết và xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân học và làm theo.
2. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ
lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Tập
trung vào các vấn đề: toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp; từng
gia đình làm giàu cho mình, cho cộng đồng, cho đất nước, xóa đói, giảm nghèo,
phấn đấu hằng năm có thêm nhiều địa phương không còn hộ nghèo; tiếp tục thực hiện
tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và tích cực tham
gia ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn, sự xuống cấp đạo đức
trong xã hội.
Tôn
vinh người tốt, việc tốt; bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến. Lên
án, phê phán, đấu tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, những
hành động coi thường kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để vi phạm
pháp luật.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các
hoạt động về cơ sở. Phát huy quyền chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong công tác vận động nhân
dân phù hợp với đặc điểm từng giai tầng, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, ngành nghề
ở địa phương, cơ sở.
Phát
huy vai trò tư vấn của tổ chức tư vấn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp. Tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể thực hiện tốt quy định về giám sát và phản biện xã hội, chủ động tham gia
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
4. Tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối hợp
giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội làm công tác dân vận.
Thực
hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, các quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban
nhân dân với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -xã hội
các cấp nhằm phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân. Thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Nhà
nước đảm bảo kinh phí và điều kiện hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội để thực hiện những nhiệm vụ được giao nhằm phát
triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội.
5. Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái,
thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy Đảng,
Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần tham gia
tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch. Từ đó, tạo sự chuyển biến tốt trong nhận thức,
nâng cao tinh thần cảnh giác, nhạy bén nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh
với những thông tin quan điểm sai trái, thù địch.
Thực
hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đảm bảo
thế và lực cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới.
KẾT LUẬN
“Tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là nội dung tư tưởng,
chính trị và giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm phát huy sức
mạnh nội lực, tạo động lực cho công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, của dân tộc.
Một
nửa thế kỷ đã qua từ khi Bác đi xa, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn
luôn đồng hành cùng Đảng, dân tộc và cách mạng Việt Nam; soi sáng, dẫn dắt toàn
Đảng, toàn dân đạt nhiều thành tựu to lớn.
Với
tất cả lòng kính yêu và biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần đẩy mạnh hơn
nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người nhằm tăng
cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của mỗi tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể
các cấp, của mỗi người dân chúng ta.
Thực
hiện tốt chủ đề này trong năm 2020 và các năm tiếp theo là cách làm thiết thực
nhất, góp phần vào thành công của các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn năm
2020; góp phần vào thành công của quá trình tiến hành đại hội đảng bộ các cấp,
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và bầu cử Quốc hội
năm 2021; tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ
Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”. Đồng thời, đó cũng là cách để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phát
huy tinh thần, ý thức, trách nhiệm của bản thân, đóng góp sức mình vào cuộc đấu
tranh bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” như chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật,
H.2011, t.1, tr.482.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.145.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.27, 186.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.27, 186.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.589.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.119.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.178-179.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.244.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.576.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.379-380.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.453.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.244.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.362.
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611.
[24] Phạm Văn Đồng: Hồ
Chí Minh - Tinh hoa và khí phách của dân
tộc, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2012, tr.44.
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.396.
[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.256.
[30] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.16, 130-131.
[31] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.276.
[33] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.547.
[35] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50.
[36] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50.
[37] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50.
[39] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.438.
[40] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.280-281.
[41] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.557.
[42] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.228.
[43] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.495.
[44] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.
[45] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.49.
[46] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.608.
[52] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.301.
[53] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622.
[54] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17.
[55] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.473.
[57] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.452.
[59] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.249.
[60] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.130.
[61] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.290.
[62] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611-612.
[63] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603.
[64] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.35.
[65] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668.
[66] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.457.
[67] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.260.
[68] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.612.
[69] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.21.
[70] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.478.
[71] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.
[72] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374.
[73] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.298.
[74] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.477-480.
[75] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.248.
[76] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.90, 89.
[77] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.90, 89.
[78] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.90.
[79] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.340.
[81] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.55.
[82] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233-234.
[83] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.280-281.
[84] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.149.
[86] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.65.
[87] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.158.
[88] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Sđd, tr.89.
[89] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.217.
[90] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.338.
[92],93 Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.159-160, 160.
[94] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.161.
[95] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.161.
[96] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.162.
[98] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.163.
[99] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.163.
[100] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.164.
[101] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.164, 165.
[102] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.164,165.
[103] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.165-166.
[105] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.210.
[106] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.210.
[108] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.166.
[109] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.159.
[110] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.210-211, 176.
[111] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.210-211, 176.
[112] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Sđd, tr.178-179.
[113] Ví dụ như Nghị quyết
số 23-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; và các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiếp tục thực
hiện các nghị quyết này.
0 Comments