Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung
của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo
quy luật này. phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là:
những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự
thay đôi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại, những sự thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật,
hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách
quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
a) Khái niệm chất, lượng
- Khái niệm chất
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng. Như vậy, tạo thành chất của sự vật, hiện
tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó nhưng khái niệm chất
không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tuợng đều có những
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành
chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của
nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản cua sự vật, hiện
tượng phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong
quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản.
Mặt khác, chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định
bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết
giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể. Vì vậy, việc phân biệt thuộc tính
cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi
sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà còn nhiều chất, tùy thuộc vào các
mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách
rời sự vật, hiện tượng, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
- Khải niệm lượng Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu
tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Với khái niệm này cho thấy: một sự
vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng
các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật, hiện
tượng đó.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một
sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và
lượng trong quá trình nhận thức về sự vật, hiện tượng chỉ có ý nghĩa tương đối:
có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác
lại là lượng.
b) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cùng là một thể thống nhất giữa hai
mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách
biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về ehất của
sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng
dẫn đển sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng
chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm
chất thay đổi được gọi là độ.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất
và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật,
hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự
thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn
đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về
lượng khi đạt tới điếm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự
ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy
khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự
vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát
và tự giác,…
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng
thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá
trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới luôn
luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo
ra một đường nút vô tận. thể hiện cách thức vận động và phát triển cùa sự vật
từ thấp đến cao. Ph. Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn
thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau
về chất".
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật.
Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm
thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất
yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ
tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện
tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến
của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội và tư duy.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và
lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn
nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ
tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật,
hiện tượng.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng
tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược
lại. Do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần
từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất: đồng thời, có thể
phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật,
hiện tượng.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về
chất của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn
điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng
tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy
đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự
vật, hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh
trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ
quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước
nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
không dám thực hiện bước nhảy mặc dù luợng đã tích lũy tới điểm nút và
quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự biến hóa về lượng.
- Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong
phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các
hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng tĩnh vực cụ thể.
Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào
điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do
đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình
chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
0 Comments