Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết
học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà
triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của
triết học.
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống
nhất là thế giới vật chất. thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc
lập với ý thức con người.
Lênin – người đã bảo vệ và phát triển triết học Mác đã nêu ra định
nghĩa “vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại để làm cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác.”
Định nghĩa trên thể hiện mấy
nội dung sau:
Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái
quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng
trong các lỉnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”, đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái
gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác “tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”. điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật
chất) là cái có trước (tính thứ nhất). còn “cảm giác”, (ý thức) là cái có sau (tinh
thứ hai). Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức.
“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, đươc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”. Điều đó nói lên
“thực tại khách quan” (vật chất) được biểu hiên thông qua các dạng cụ thể bằng
“cảm giác” (ý thức) con người có thể nhận thức được. Và “thực tại khách quan”
(vật chất) chính là nguồn gốc nội dung của “cảm giác” (ý thức).
Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng, vô tận luôn
vận động và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà
khoa học đi nghiên cứu thế giới vật chất, tim ra những kết cấu mới, những thuộc
tính mới và những qui luật hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm kho
tàng vật chất của nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật biên chứng khẳng định ý thức của con người là
sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật
biên chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông
qua hoạt động thực tiển, nên bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
Y thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có
nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan qui định, nhưng ý thức
là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý,
vật chất như chủ nghĩa duy vật bình thường quan niệm.
Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, củng
có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tư giác, sáng tạo thế giới.
Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu
nhận thông tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có,ý thức sẽ tạo ra tri
thức mới về vật chất. Ý thức có thể tiên đoán, tiên liệu tương lai, có thể tạo
ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thiết khoa học …. Ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song
đây là sự phản ánh đặc biệt –phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế
giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối
tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển
vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô
hình tư duy-đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà
còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiển lịch sử xã hội, phản
ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chinh là bản chất xã hội của ý thức.
Quan điểm Mác xit cho rằng vật chất quyết đinh ý thức, ý thức là
sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người. Bộ óc con
người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động và thực tiển của xã hội.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau:
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức.
Cả ý thức thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và
xã hội nhất định. những ước mơ phong tục, tập quán, thói quen nầy nẩy sinh trên
những điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiển xã hội –lịch sử. Chủ nghĩa
xã hội khoa học đời củng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về kinh
tế chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng, văn
hoá nhân loại cùng với thiên tài của cácmác và Ăngghen.
Do thưc tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức
của nó củng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ
củng quyết định ý thức. Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất.
Với tính độc lập tương đối của mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiển của con người.
Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hảm thâm chí
phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật.
Vai trò của ý thức là ở trổ nó chỉ đạo hoạt động của con người,
hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý trí biện pháp hoạt động của từng người. Cho
nên trong điều kiên khách quan nhất định ý thức – tư tưởng trở thành nhân tố
quan trọng có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai,
thành công hay thất bại.
Sức mạnh của ý thức con người không phải ở trổ tách rời điều kiện
vật chất thoát li điều kiện khách quan mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã
có phản ánh đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng
tạo và có hiệu quả. “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà
còn tạo ra thế giới khách quan” (Lênin).
Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết
học Mác xit. Trong nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải xuất phát từ thực tế
khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Đồng
thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của
con người trong việc nhân thức, tác động cải tạo thế giới. Quan điểm khách quan
trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng
tạo của ý thức, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui
luật khách quan, xa rời hiện thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất.
Ở nước ta, trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng
chúng ta mắt bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi
trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa; về bố trí cơ
cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế…
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng
sản xuất còn nhỏ bé, chưa phát triển, còn chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc hậu,
kinh tế hàng hoá chưa phát triển. Chúng ta chỉ muốn đẩy nhanh quá trình xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều kiện
thực tế của đất nước.
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu
tư, thường chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện và khả
năng thực tế đề ra những chỉ tiêu kế hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa,sử dụng các thành phần kinh tế, đã
có hiện tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng
ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước
đi thích hợp, phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để
phát triển lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu,
yếu kém về lý luận, do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế
độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài
học: “Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiên đảm
bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng” (VKĐH 6, trang 30).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng, phải thừa
nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự nhiên và xã
hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan.
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra, trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức
đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi
mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho
nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ.
Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ
thực tế khách quan của đất nước và phù hợp qui luật. Chúng ta biết rằng ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới.
Do đó càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác, đầy đủ trung thực
và sử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng
hiệu quả. Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức
và vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách quan.
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng
ta xác định: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động
theo qui luật khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới
khách quan): “Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiện đảm
bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng “là khẳng định vai trò tích cực của ý thức
trong việc chỉ đạo hành động con người. Như vậy, từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối
quan hệ vật chất và ý thức, củng như từ những kinh nghiệm thành công và thất
bại trong quá trình lảnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta đả rút ra bài học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất
nước. Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng
ở nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lãnh đạo của mình
thông qua việc nhận thức đúng, tranh thủ đươc thời cơ do cách mạng khoa học
công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại, đồng thời xác định rõ những thách thức mà nó mang lại.
0 Comments