Mở bài:
Với
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước và con người Việt Nam luôn tự
hào có một bề dày lịch sử của một dân tộc sẵn sàng hy sinh xương máu, kiên cường,
bền bỉ đấu tranh để giành lại những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của con
người. Đó là quyền được sống trong độc lập, tự do và quyền tự quyết định vận mệnh
của mình. Vì lẽ đó, giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đem lại tự do, ấm
no, hạnh phúc cho người dân đã trở thành mục tiêu nhất quán và nền tảng hoạch định
mọi quyết sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau gần tám thập kỷ dưới sự lãnh đạo
của Đảng, có thể nói, những thành tựu dân tộc ta đạt được trong việc bảo đảm và
phát triển quyền con người là rất cơ bản, rất to lớn.
Trong phạm vi bài làm, tôi xin làm rõ đường lối,
chính sách của Đảng ta về quyền con người?
Trước
tiên ta cần khẳng định: Quyền con người là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, nên
luôn có cách hiểu khác nhau. Kế thừa nhận thức chung và trên quan điểm macxit
có thể hiểu, quyền con người là quyền của tất cả mọi người được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ.
Học
thuyết về quyền pháp lý, quyền con người phải do nhà nước xác định và được pháp
điển hóa thành các điều luật. Học thuyết về quyền tự nhiên, QCN là những gì bẩm
sinh vốn có của con người mà tạo hóa ban tặng cho họ, không phụ thuộc vào tập
quán, truyền thống văn hóa, ý chí của nhà nước. QCN được chia thành 2 nhóm:
Nhóm các quyền dân sự, chính trị. Quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước
và XH, các quyền tự do cơ bản, quyền được bảo đảm, an ninh cá nhân, quyền bình
đẳng. Nhóm các quyền KT-XH văn hóa: Quyền học tập, quyền sở hữu kinh doanh để bảo
vệ sức khỏe, sáng tạo, hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Đường
lối, chính sách:
Đường lối, chính sách của Đảng và NN ta về đảm bảo quyền
con người:
1- Giữ vững độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, tạo tiền đề cho việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam.
Không có ĐLDT, chủ quyền quốc gia không
thể có quyền con người đầy đủ. Tuy nhiên, tình hình chính trị, Xh bất ổn; tình
trạng ly khai và nguy cơ xung đột luôn tiềm ẩn thì cũng không thể đảm bảo đầy đủ,
trọn vẹn các quyền con người. Vì vậy, đối với VN, ĐLDT, chủ quyền quốc gia
không tách rời toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước. Ngày nay, ĐLDT, chủ quyền
quốc gia còn bao gồm cả việc đưa đất nước tránh khỏi sự lệ thuộc về kinh tế, được
tạo ra bởi các cường quốc và các định chế toàn cầu.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tranh chấp
lãnh thổ diễn ra gay gắt, giũa vững ĐLDT, chủ quyền quốc gia là một thách thức
lớn. Đảng và NN ta luôn chú trọng nâng cao nhận thức XH về yêu cầu này; đồng thời
nỗ lực xây dựng và tổ chức tực thi chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. Mục tiêu
chung hiện nay là, một mặt cần tạo ra sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, KT,
VH, XH; mặt khác tránh để đất nước rơi vào vòng xoáy xung đột và bị chi phối bởi
các liên minh quân sự, nhằm tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước.
2- XD NN pháp
quyền XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
NN pháp quyền là giá trị chung của nhân
loại. Đảng chủ trương XD NN pháp quyền theo định hướng XHCN là nhằm tạo ra môi
trường, đk tốt nhất để đảm bảo quyền con người ỡ mỗi nước. Đó là NN được tổ chức
và vận hành theo nguyên tắc “quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”.
Trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước hiện
nay, XD NN pháp quyền là nâng cao tính pháp quyền trong xd các công cụ pháp lý
(Luật pháp, tổ chức bộ máy, cơ chế giám sát) trong xd nền hành chính công theo
hướng phục vụ nhân dân (đặc biệt coi trọng chế độ công vụ và nâng cao trách nhiệm
của cán bộ công chức trong mọi hoạt động); trong thực tiễn hoạt động tư pháp
(nguyên tắc xét xử công bằng và bảo vệ các thành viên XH trước việc sử dụng quyền
lực quá mức),…
Bên cạnh việc tổ chức bộ máy NN theo hướng
tinh gọn, hoạt động hiệu quả, NN từng bước nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình của các cơ quan công quyền (giải trình từ trên xuống) – 1 ND của quyền
được thông tin, đồng thời qua đó tạo điều kiện để người dân có thể tham gia hiệu
quả về công việc chung của đất nước.
3- Phát triển
kinh tế, XH và văn hóa, bảo đảm và nâng cao sự hưởng thụ các quyền con người.
Đảng và NN chủ trương xd và thúc đẩy cơ
chế thị trường định hướng XHCN phát triển, nhằm tăng nhanh tiềm lực vật chất
cho việc bảo đảm quyền con người; đồng thời chủ trương thực hiện công bằng XH
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển nhằm đảm bảo cơ hội sống và
phát triển cho mọi thành viên XH.
Sự nghiệp phát triển KH, GD luôn được
quan tâm và được coi là quốc sách hàng đầu. Việc thúc đẩy KH, GD phát triển vừa
tạo sự phát triển bền vững của đất nước vừa tạo cơ hội để người dân có thể tự
do phát triển năng lực cá nhân. Bên cạnh đó, Đảng và NN chủ trương xd nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao sự hưởng thụ
văn hóa cho mọi người dân trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của văn minh
nhân loại và hội nhập quốc tế; đồng thời bảo lưu được những giá trị văn hóa của
các dân tộc VN.
4- Thực hành dân
chủ, giữ vững ổn định chính trị - XH, nhằm thực hiện đầy đủ các quyền con người.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát
triển, Đảng và NN chủ trương tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa XH, dưới nhiều hình
thức sáng tạo như: kết hợp thực hiện DC ở cơ sở với không ngừng DC hóa mọi lĩnh
vực của đời sống XH, nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền con người. DC
hóa còn được thể hiện thông qua việc thúc đẩy quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp
cận thông tin thu hút sự tham gia của người dân và cả hệ thống chính trị trong
việc thực hiện và đảm bảo quyền con người,…
Quá trình phát triển DC ở VN diễn ra tích
cực song thận trọng đã góp phần giữ vững ổn định chính trị - XH, hóa giải mọi
xung đột, tạo môi trường hòa bình và các đk
thiết yếu cho việc thực hiện quyền con người.
5- Tăng cường GD
quyền con người cho mọi tầng lớp XH, trước hết là CB, CC, VC các cấp.
GD quyền con người nhằm nâng cao tri thức
nói chung, để người dân có thể tự bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. GD nhân quyền
cần hướng tới mọi tầng lớp nhân dân; cần quan tâm GD nhân quyền cho học sinh,
SV, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào trong các tôn giáo. Cần chú trọng GD
quyền con người cho CB, CC, VC các cấp, nhằm nâng cao trách nhiệm của những người
đại diện NN trong việc bảo đảm quyền con người. Trong bối cảnh quan điểm nhân
quyền tư sản tác động mạnh vào VN, việc GD quyền con người theo quan điểm của Đảng
được đề cao; nhờ đó giúp các cấp, các ngành giải quyết thỏa đáng nhiều vấn đề
nhân quyền phức tạp.
6- Tích cực mở rộng
hợp tác quốc tế về quyền con người.
Quá trình hội nhập quốc tế và phát triển
đặt ra yêu cầu ngày càng cao về hợp tác, trao đổi với bên ngoài. Theo phương
châm là bạn và đối tác tin cậy của cộng động quốc tế, Đảng và NN chủ trương mở
rộng quan hệ với tất cả các quốc gia và tổ chức quốc tế. Qua đó, một mặt tranh
thủ các nguồn lực, chia sẽ những kinh nghiệm tốt trong việc bảo đảm quyền con
người; mặt khác, làm rõ quan điểm, cách tiếp nhận và thực tiễn con người của
VN, đấu tranh với các mưu đồ áp đặt DC, nhân quyền.
Với tinh thần tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế, VN đã tham gia vào 1 số cơ chế quốc tế và khu vực về nhân quyền; đã mở
nhiều kênh đối thoại nhân quyền với nhiều quốc gia và nhiều tổ chức khu vực;
các cuộc hội thảo quốc tế về nhân quyền được tổ chức ở VN. Thực tiễn hợp tác
trên lĩnh vực nhân quyền đã cung cấp nguồn lực và kinh nghiệm quý, góp phần giải
quyết tốt nhiều vấn đề cụ thể, như: bảo vệ, chăm sóc, GD trẻ em; bình đẳng giới,
xóa bỏ nạn bạo hành gia đình; thu hút sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực của
đsXH; xóa đói nghèo cùng cực; cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường,… đồng thời
giúp các đối tác hiểu rõ hơn thực tiễn bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở
VN./.
Liên hệ thực tế
Những mặt đã đạt được
Ngay sau khi ra
đời, nhà nước VN đã xác định rõ nhiệm vụ bảo đảm QCN
Thành công của
VN trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc giáo dục trẻ
em, bình đẳng giới, văn hóa, khoa học, thể thao, sự phát triển mạnh mẽ của các
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng và hệ thống thông tin, truyền thông, báo chí cả
nước, cũng như việc không ngừng mở rộng dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống
XH được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi là bằng chứng mạnh mẽ về QCN
Kể từ khi có bản Hiến pháp đầu
tiên (năm 1946) cho tới nay, Việt Nam đã có 4 lần sửa đổi Hiến pháp; trong đó,
quyền con người ngày càng được quy định toàn diện, đầy đủ hơn. Bản Hiến pháp
năm 1992 đã quy định rõ nội dung quyền, các biện pháp bảo đảm cho các quyền con
người ở Việt Nam; trong đó, có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, bình đẳng; có quyền
bình đẳng giữa các dân tộc và bình đẳng nam nữ, quyền bầu cử, ứng cử, khiếu
nại, tố cáo, lập hội, tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, tự
do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do kinh doanh, sở hữu hợp pháp của cá nhân, tự do
đi lại ở trong nước và ra nước ngoài, lao động, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ...
Trên cơ sở quy định của Hiến
pháp, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng nhiều luật để đảm bảo toàn diện việc thực
hiện các quyền con người và đã được các nước đánh giá cao như: Luật Tổ chức
Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử
đại biểu Hội đồng Nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và ủy ban Nhân dân, ….. Bên cạnh đó Việt Nam cũng đã gia nhập hầu hết các
điều ước nhân quyền quốc tế chủ chốt, trong đó có "Công ước về
Quyền dân sự, chính trị ", "Công ước về Quyền Kinh
tế, xã hội, văn hoá"; "Công ước về Xoá bỏ mọi hình
thức phân biệt chủng tộc "Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ", là nước thứ hai trên thế giới và nước Châu
Á đầu tiên tham gia "Công ước Quyền trẻ em"; phê
chuẩn 17 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế. Ngày 22-10-2007, Việt Nam đã
ký "Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật"' và
hiện đang nghiên cứu việc tham gia "Công ước Chống tra tấn".Những
cam kết của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế đã được phản ánh trong các
văn bản pháp luật trong nước.
Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú
trọng xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm tra, giám sát và thực hiện pháp
luật. Trước hết và quan trọng nhất là việc nhân dân thông qua cơ quan đại diện
cao nhất là Quốc hội để thực hiện các quyền quan trọng
là lập pháp, giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước và quyết định những
vấn đề quan trọng liên quan đến xã hội. Quyền con người ở Việt Nam còn được bảo
đảm bởi các cơ quan trong hệ thống hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị,
xã hội, nghề nghiệp. Đồng thời, nhân dân cũng có thể tham gia đóng góp ý kiến
thông qua các cơ chế dân cử cấp. địa phương, các quy trình khiếu nại, tố cáo,
thanh tra, khiếu kiện..., theo tinh thần "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra".
Chính
từ chính sách nhất quán, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về đảm bảo quyền con
người và sự tham gia của toàn dân, cuộc sống và quyền của người dân đã được đảm
bảo ngày càng đầy đủ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, chính
trị, dân sự. Cuộc sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ
nghèo giảm bình quân từ 3-5%, hiện gần 99% số xã đặc biệt khó khăn có đường
ô-tô đến trung tâm xã, 100% số huyện, 95% số xã các vùng này đã có điện; 90-95%
trẻ em trong độ tuổi đến trường, 100% các huyện có trường trung học phổ thông.
Có 30 dân tộc ở Việt Nam có chữ viết, trong đó 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số đã
được soạn cho giáo trình giảng dạy, đưa vào dạy tại các trường tiểu học và
trung học phổ thông dân tộc ở 25 tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao. Đài
Truyền hình Việt Nam phát một kênh riêng bằng 10 thứ tiếng dân tộc và Đài Tiếng
nói Việt Nam sản xuất hơn 4.000 chương trình bằng 13 thứ tiếng dân tộc.
Người
dân có điều kiện tham gia nhiều hơn vào việc xây dựng, thực hiện chính sách,
pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế-xã hội thông qua các tổ chức chính
trị, xã hội, nghề nghiệp do chính họ lập ra để đại diện cho lợi ích của mình.
Hiện có nhiều đoàn thể lớn gồm hàng triệu thành viên, như: Tổng Liên đoàn Lao
động, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam. Ở phạm vi toàn quốc có 380 hội, hàng nghìn hội ở cấp địa
phương với hàng chục nghìn chi nhánh cơ sở. Số tổ chức công đoàn ở cấp quốc gia
là 18, cùng hoạt động với 6.020 tổ chức công đoàn địa phương.
Thông
tin đại chúng phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình, phong phú về nội
dung, trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, của nhân dân; là
công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của
nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp
luật của Nhà nước. Đến năm 2008, Việt Nam có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850
ấn phẩm, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền
hình kỹ thuật số mặt đất, 01 hãng thông tấn, 80 báo điện tử và hàng nghìn trang
tin điện tử, 55 nhà xuất bản, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ. Đặc biệt là số
người tiếp cận Intemet chiếm gần 24% dân số, cao hơn mức trung bình ở châu Á là
18%. Có 95% số xã đặc biệt khó khăn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có trạm
truyền thanh; nhiều xã có trạm truyền thanh, phát thanh bằng tiếng dân tộc.
Ngoài hệ thống thông tin, báo chí trong nước, người dân Việt Nam còn được tiếp
cận với báo chí, truyền hình của các hãng quốc tế.
Với
chính sách của Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo,
cuộc sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam hiện nay rất sôi động, phong phú
với trên 20 triệu tín đồ của các tôn giáo khác nhau, bao gồm các tôn giáo lớn
trên thế giới là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo; trên 80% dân số có tín
ngưỡng. Các sinh hoạt tôn giáo, các ngày lễ lớn của nhiều tôn giáo được tổ chức
trọng thể với hàng trăm nghìn tín đồ tham gia. Đại lễ Phật đản LHQ được tổ chức
ở Hà Nội năm 2008 với sự tham gia của 4.000 tăng ni, phật tử; trong đó, có
2.000 vị chức sắc đến từ 74 quốc gia, vùng lãnh thổ. Việt Nam sẽ đăng cai tổ
chức Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo thế giới vào năm 2010. Các cơ
sở thờ tự liên tục được cải tạo hoặc xây mới. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc nhà tu hành được duy trì và mở rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam
được cử đi đào tạo tại nước ngoài…
Đồng
bào các dân tộc thiểu số tham gia ngày càng sâu, rộng trong đời sống chính trị
của đất nước. Quốc hội khoá XII (nhiệm kỳ 2007-2012) có 87 đại biểu là người
dân tộc thiểu số, chiếm gần 18% số đại biểu Quốc hội. Đại biểu là người các dân
tộc thiểu số trong Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh là gần 25%, cấp huyện là 20% cấp
xã là 24%. Các vị là người dân tộc thiểu số cũng giữ vị trí lãnh đạo ở nhiều cơ
quan của Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội và nghề nghiệp, kể cả ở những
cấp cao nhất. Trẻ em, người tàn tật được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, xã
hội và gia đình, theo chính sách ưu tiên của Nhà nước, truyền thống lâu đời của
dân tộc, được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ ngày càng tốt hơn trong các lĩnh vực y
tế giáo dục...
Hạn chế
Đất nước vừa thoát khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển.
Hệ thống chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn
nhiều quyền, lợi ích hợp pháp của người dân bị vi phạm
Tình trạng quan liêu, tham nhũng thoái hóa của cán bộ vẫn còn
xảy ra.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền đã, đang sẽ là nhiệm
vụ chính trị quan trọng, khó khăn và phức tạp.
Giải
pháp
Triển khai nhiều chương trình KT-XH lớn nhằm bảo đảm và nâng
cao chất lượng các QCN trên thực tế.
Trong hoạt động đối ngoại, chủ động và kiên định nguyên tắc
giữ vững độc lập chủ quyền, không thỏa hiệp trước những yêu sách gây tổn hại đến
chủ quyền an ninh, đồng thời có đối sách linh hoạt xử lý mềm dẻo trong những vụ
việc không xâm hại đến lợi ích của đất nước
Kết luận:
Có thể nói,
vấn đề quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước đề cao, nhận thức tích cực và
áp dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, từ một dân tộc bị tước
đoạt cả những quyền tự do cơ bản nhất, người dân Việt Nam đã được thụ hưởng
ngày một đầy đủ và toàn diện hơn các quyền của mình. Mặc dù hiện nay, trên thế
giới còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề quyền con người và thậm chí một số
thế lực thù địch đã lợi dụng điều này để vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền
tại Việt Nam, song những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong những
năm qua là bằng chứng không thể phủ nhận cho những nỗ lực của Việt Nam trong
lĩnh vực này.
0 Comments