1. Những nguyên lý về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin:
* Nguyên lý 1: Chủ nghĩa Mác là nên tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của Đảng Cộng sản: V.I.Lênin viết: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn
năng ví nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt
chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với
bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự
áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp
nhất mà loài người tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính
trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”. Học thuyết đó là lý luận có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với phong trào công nhân và hoạt động của Đảng. Đối với
Đảng Cộng sản, V.I.Lê nin khẳng định: “Trước hết và trên hết phải xem xét lý
luận là kim chỉ nam cho hành động”. Lý luận đã chỉ rõ: Tổ chức cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó mà mục tiêu cuối
cùng là giai cấp vô sản giành chính quyền và tổ chức xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ngày 05 tháng 6 năm 1911, từ bến Cảng Sài Gòn, với hoài bão lớn lao, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, cứu
dân. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã đi rất nhiều nơi, từ Pháp,
Người đã đến nhiều nước khác ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Người đã đến quê
hương của Cách mạng Tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với bản
Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa…
Trong quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta giành được những thắng lợi to lớn, Người khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
Tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử hoạt động lãnh đạo của Đảng và của quá
trình cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay, “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Bổ sung, phát triển năm
2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là một luận điểm
cực kỳ quan trọng được khái quát, rút ra từ thực tiễn phong phú, sinh động của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, nó chỉ ra nguồn gốc sâu xa của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, được lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường, chỉ lối.
Từ thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong công cuộc xây dựng đất nước, nhất
là từ thực tiễn phong phú, sinh động và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được trong công cuộc đổi mới đất
nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh chóng,
phức tạp, khó lường; những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng
nhiều, càng đòi hỏi phải có những lời giải đáp thuyết phục, có cơ sở lý luận và
thực tiễn. Trong lúc đó, các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ đoạn hòng xuyên
tạc, phủ nhận từng luận điểm trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
để đi tới xoá bỏ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng và nhân dân ta. Vì vậy,
hơn lúc nào hết, việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng định, bảo
vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đang trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta hiện nay.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chưa một học thuyết chính trị xã hội nào
mà ngay từ khi mới xuất hiện lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu, đấu tranh giữa
các lập trường tư tưởng đối lập nhau như sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng đó đã diễn ra ngay từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin mới
ra đời cho đến ngày nay. Điều đó không phải ngẫu nhiên, bởi vì chủ nghĩa Mác -
Lênin là một khoa học, sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thực sự giải đáp
được những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống của toàn nhân loại đặt ra. Trong lúc
toàn bộ hệ thống lý luận của hệ tư tưởng tư sản đều tìm cách chứng minh cho
việc duy trì sự tồn tại “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản,
thì ngược lại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã tuyên chiến với hệ tư tưởng tư sản,
khẳng định sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản và sự tất
thắng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Chính vì thế mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã “gây ra” sự thù địch mạnh nhất
và lòng căm thù lớn nhất của giai cấp tư sản.
Lợi dụng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, các
nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và bọn cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin
đã xuyên tạc rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là tương lai của loài người.
Chúng tuyên truyền, xuyên tạc, tấn công quyết liệt chủ nghĩa Mác - Lênin, lớn
tiếng cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, rằng chủ nghĩa Mác -
Lênin chỉ có giá trị ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thế kỷ XXI không còn
phù hợp nữa, rằng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và
các nước Đông Âu là minh chứng cho sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác – Lênin !
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin không những không lỗi thời,
lạc hậu như ai đó vẫn rêu rao, mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và sẽ tiếp tục
đóng vai trò là kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong
trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân
dân các dân tộc trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, là nhà tư tưởng vĩ đại của cách
mạng Việt Nam đã tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo. Người đã nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học
của học thuyết Mác - Lênin, vận dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế
của nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc thực sự đã cổ vũ, khích lệ cuộc
đấu tranh của nhiều dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Trong thời đại ngày nay tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc đã được thế giới thừa nhận như là tư
tưởng góp phần làm biến đổi bộ mặt thế giới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đi
vào cuộc sống, đã trở thành những giá trị văn hoá bền vững không chỉ riêng của
dân tộc Việt Nam mà còn là tài sản chung của nhân loại.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong quá
trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân ta đã giành được sau hơn 25 năm đổi
mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn gắn liền với học thuyết Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, toàn diện hơn, sâu
sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định chỉ có
trên cơ sở trung thành, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam thì Đảng mới có khả năng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng và mới tránh được nguy cơ sai
lầm về đường lối.
Những nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tiếp tục soi sáng
con đường phát triển đi lên của nhân loại, trong cuộc đấu tranh cho mục tiêu
cao cả là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đảng ta và của cách mạng nước ta vẫn tiếp tục toả sáng trong sự nghiệp
đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, lợi dụng những khó khăn, những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, khu vực, những khó khăn của tình hình trong nước, các thế lực thù
địch càng ra sức chống phá cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam, công kích,
xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với những
âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, thì những diễn biến trong
đời sống xã hội, sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội
nhập đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt
mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chạy theo lối sống thực dụng, giảm sút
niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự tất yếu thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình đó, càng đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, một yêu cầu có tính nguyên tắc và có ý nghĩa sống còn đối với
sự nghiệp đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và
nhân dân ta. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Kiên định, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta, trước hết
Đảng phải trung thành, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, tình
hình cụ thể của cách mạng Việt Nam, không máy móc, giáo điều. Lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận và phương pháp luận để tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất
nước, trên cơ sở đó đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân và quy luật phát triển của lịch sử.
Cần phải tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn góp
phần phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin cần đi sâu làm rõ
những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hoàn toàn đúng đắn từ lúc
mới ra đời cho đến nay vẫn đúng. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin chỉ đúng và phù hợp trong điều kiện lịch sử lúc đó, đến nay đã bị thực
tiễn lịch sử vượt qua. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng
nhưng những người vận dụng nó đã hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ, chưa sâu sắc nên
vận dụng không đúng. Những luận điểm cần được bổ sung, phát triển mà chủ nghĩa
Mác - Lênin chưa đề cập đầy đủ, toàn diện phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử mới và những luận điểm hoàn toàn mới mà chủ nghĩa Mác - Lênin chưa từng đề
cập đến.
Trung thành và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
phải nắm vững mối quan hệ giữa kiên định và phát triển, tức là phát triển trên
cơ sở kiên định nguyên tắc cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với xu thế thời
đại. Thực tiễn luôn biến đổi, phát triển, nên lý luận Mác - Lênin cũng cần được
bổ sung, đổi mới, phát triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so với cuộc sống.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống mở, không thể coi những nhận thức đạt
được cho đến ngày nay là những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Không ngừng phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin vừa là yêu cầu của thực tiễn xã hội vừa là yêu cầu
nội tại của học thuyết Mác - Lênin. Có phát triển và thông qua phát
triển, chủ nghĩa Mác - Lênin mới tự bảo vệ được mình, mới phát huy được sức
mạnh, sức sống của mình đối với thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta. Vì vậy bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng chính là phát huy sức mạnh, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước
ta.
Đi đôi với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng sai trái, thù
địch, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận diện
các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm chung đến những luận điểm cụ thể trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy đảng trong
đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo đảm các hoạt động đấu
tranh tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc,
vững vàng về quan điểm chính trị, sâu sắc về lý luận khoa học, sắc bén trong
phương pháp và đạt hiệu quả cao. Huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan
nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông,
báo chí… tiến công chống các quan điểm sai trái, thù địch. Nâng cao chất lượng
đấu tranh phản bác, tiến công tư tưởng, lý luận chống các quan điểm sai trái,
thù địch theo hướng tăng hàm lượng khoa học, tăng độ sâu lý luận, cập nhật
thông tin, luận cứ, luận chứng sắc bén, có lý, có tình, có sức thuyết phục cao.
Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình
thức. Quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, điều kiện cho các hoạt
động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch.
Ngày nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn
biến phức tạp, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận để bảo vệ chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ngày càng khó khăn, phức tạp hơn. Việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải có cơ sở lý luận, thực tiễn và bằng hành động
cách mạng thiết thực cụ thể. Phải từng bước hiện thực hoá mục tiêu, lý tưởng xã
hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Phải chứng minh trên thực tế tính cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng kết quả hiện
thực, bằng những thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân ta đã thu
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại;
kinh tế phát triển năng động, mức tăng trưởng kinh tế nhiều năm qua liên tục
được giữ vững; môi trường chính trị, văn hoá, xã hội ổn định và phát triển; an
ninh, quốc phòng được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại ngày càng mở
rộng, khẳng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Điều đó là một minh chứng sinh động, khẳng định Đảng ta đã tuyệt đối trung
thành và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng nước ta. Song chúng ta cũng cần nhận
thức sâu sắc rằng, con đường mà chúng ta đang đi tới là không dễ dàng, bằng
phẳng mà phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng chúng ta tin tưởng chắc
chắn rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động, nhất định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước sẽ thu được nhiều
thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội./.
* Nguyên lý 2: Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là
đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp
công nhân: Đảng là tổ chức được tổ chức rất chặt chẽ, có kỷ luật cao, tự giác, nghiêm
minh thống nhất ý chí và hành cộng. Đó là tổ chức của những người giác ngộ cao
về mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, triệt để cách mạng, kiên quyết
đấu tranh cho lý tưởng đó. Trong thực tiên Đảng luôn đi tiên phong và giáo dục
lôi cuốn quần chúng thực hiện lý tưởng cộng sản. Đảng phải được vũ trang bằng
lý luận cách mạng thì mới có thể thực hiện được lý tưởng cộng sản.
* Nguyên lý 3: Giành được chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
chuyên chính vô sản và là một bộ phận của hệ thống ấy: Trở thành đảng cầm quyền
lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng lập hệ thống chuyên chính vô sản, khác
về chất với hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo hệ thống ấy để
thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đảng là hạt nhân chính trị
của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo, đồng thời là một bộ
phận của hệ thống ấy. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa hoạt động đúng đường lối, quan điểm của Đảng, thực hiện mục tiêu,
lý tưởng của Đảng.
* Nguyên lý 4: Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng: Đảng phải thực hiện tốt dân chủ để phát
huy cao trí tuệ, tính sang tạo của mọi đảng viên trong hoạt động, đồng thời
Đảng phải hoạt động một cách tập trung thống nhất. Vì thế Đảng phải xây dựng tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ để thống nhất ý
chí và hành động. Đó là vấn đề thuộc bản chất của Đảng, phân biệt Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân với đảng kiểu cũ-đảng cải lương. Tập trung dân chủ đối
lập với tập trung quan lieu, gia trưởng độc đoán và dân chủ hình thức, dân chủ
không lãnh đạo.
* Nguyên lý 5: Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của Đảng, tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng: V.I.Lê nin khẳng định,
để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, Đảng “phải có một sự thống nhất ý chí
hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”. Người chỉ rõ: Đoàn kết thống nhất là sức mạnh to
lớn của Đảng. Đó là sự đoàn kết của những người cùng chung lý tưởng cộng sản,
chung mục đích và có lợi ích chung. Sự đoàn kết đó dựa trên cơ sở cương lĩnh
chính trị và các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật sắt của Đảng. Đoàn kết thống nhất
trong Đảng là cơ sở và điều kiện để đoàn kết giai cấp công nhân. Trong điều
kiện đảng cầm quyền sự đoàn kết thống nhất của Đảng lại càng đặc biệt quan
trọng, nhất là ở những nước giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ bé trong dân cư.
Từng cán bộ đảng viên và các tổ chức đảng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
của Đảng. Đảng là một khối thống nhất về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận
của đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. V. I. Lê-nin đã phát triển quan
điểm của chủ nghĩa Mác về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng Cộng sản. Người
đưa ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại”. Để sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát
triển, Đảng cần phải thực hiện tự phê bình và phê bình, đây là quy luật phát
triển của Đảng, có tác dụng phát hiện, giải quyết mâu thuẫn đối với từng cá
nhân, từng tổ chức và cả hệ thống của Đảng. Song, tự phê bình và phê bình phải
có tính đảng và tính nguyên tắc là nhằm tăng cường sự thống nhất trong Đảng,
chứ không phải tạo ra bè phái để chia rẽ nội bộ Đảng; nhằm tăng cường giữ vững
mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức đảng và giữa các tổ chức đảng với nhân
dân.
* Nguyên lý 6: Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên quyết ngăn
chặn và loại trừ bệnh quan liêu: Đảng gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời
nhân dân. Người cho rằng “những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong
đại dương nhân dân”. Nếu không có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ
trương, đường lối của Đảng không thể trở thành hiện thực. Sức mạnh của Đảng là
ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Khi nắm chính quyền, Đảng có nhiều điều
kiện mới, công cụ mới để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, nhưng
cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng; làm cho đảng viên thoái
hoá biến chất, xa rời quần chúng. Đó là nguyên nhân căn bản làm cho Đảng suy
yếu.
* Nguyên lý 7: Đảng kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên
ra khỏi Đảng: Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người
không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp
đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
* Nguyên lý 8: Cương lĩnh, đường lối và
hoạt động của Đảng phải quán triệt chủ nghĩa quốc tế vô sản: Chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân là bản chất của Đảng Cộng sản. Theo Người, chủ nghĩa quốc tế
không phải là lời nói suông, không phải là lời tỏ tình đoàn kết, không phải là
nghị quyết mà là hành động.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, 80 năm ra đời và lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta đã không ngừng lớn mạnh. Học thuyết chính đảng kiểu mới của
V. I. Lê-nin đến nay vẫn luôn mang ý nghĩa lý luận sâu sắc, đang soi
sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản:
Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin về Đảng Cộng sản vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam, xây dựng thành công một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
và của dân tộc Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản gồm:
* Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng:
a/ Những thắng
lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt qua một chặng đường
đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành được những thắng
lợi rất vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các
cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan
trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua
nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra
và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi
giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở
thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ
nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn
có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành được trong hơn 7 thập kỷ qua
bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện - một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài
lợi ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do
hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi
thách thức, trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa
rời mục tiêu lý tưởng, không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những
khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu và trách nhiệm
của người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
b. Đường lối cách mạng
đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết
và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính sách của Đảng.
Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của
toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng
đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động của lịch sử, đồng
thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Sức mạnh
của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy
của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của
Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về
chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường
lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững chắc, một lý luận
tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như
Lênin đã nói: Không có lý luận cách mạng không có phong trào cách mạng... Chỉ
Đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn
vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự
phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta
luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể. Vì
vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo vào
thực tiễn Việt Nam. Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn
luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên
định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện
đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa
rời thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì
sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh
đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực công tác, thật sự là những
chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng
phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của giai cấp và của dân
tộc, một đời hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của cách mạng và lợi ích của nhân
dân.
Để giữ vững vai trò lãnh
đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí đấu
tranh để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và
tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, đảm bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng
của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Trong
quá trình lãnh đạo, bên cạnh những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những yếu kém,
thậm chí có lúc sai lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát
hiện ra những yếu kém của mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm
trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn
được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo
duy nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài
Đảng Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh đạo
cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền
tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để
hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của Đảng không phải
chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao hơn nữa
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, để công cuộc đổi mới giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị
trí công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên phải góp phần tích cực
vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của
Đảng, đem tài năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những
thành tựu và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn.
* Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
* Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam: Một trong những cống
hiến đặc sắc của Hồ Chí Minh cả mặt lý luận và thực tiễn về vấn đề Đảng là
Người đã kết hợp một cách đúng đắn và nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính
tiền phong, tính trí tuệ, tính đạo đức và tính quần chúng trong công
tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và rèn luyện đảng viên. Trong hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, một nước thuộc địa, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là "sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước". Như vậy ngay từ đầu, Đảng đã bắt rễ sâu trong "miếng đất màu
mỡ" của dân tộc mang trong mình sự gắn bó chặt chẽ vấn đề giai
cấp và dân tộc và Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin,
từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác
ngộ giai cấp trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2 - 1951), Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc
Việt Nam"([1]). Năm 1953, Hồ Chí Minh viết: “ Đảng lao động là tổ chức cao nhất của giai
cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc…Đảng là đảng của giai cấp
lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”(2). Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định
lại: “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội
tiên phong của dân tộc”(3). Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa, năm 1961, Người nhắc lại: "Đảng ta là Đảng của giai cấp,
đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị"(4).
Nói tới một đảng cộng sản chân chính trước
hết phải nhận thức đó là đảng của giai cấp công nhân, tức là nói tới tính
giai cấp, đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng
ta từ lúc ra đời và suốt quá trình xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn giữ
vững bản chất giai cấp công nhân. Những biểu hiện cụ thể là xác định mục
tiêu, lý tưởng cách mạng, đi tới chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp
là chủ nghĩa xã hội. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác-Lênin. Nguyên tắc tổ chức,sinh hoạt là tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, đoàn kết thống nhất.
Cùng với tính giai cấp, Đảng phải giữ
vững tính tiền phong, nghĩa là Đảng luôn luôn ở vị trí đi đầu, dẫn
đầu, hăng hái, tích cực nhất.. Đảng đứng mũi chịu sào, đi tiên phong, có mặt
trong quần chúng nhưng không bao giờ đứng trên hoặc theo
đuôi quần chúng.
Những vấn đề đó từ Mác đến Lênin, đặc biệt
là Lênin đã khẳng định và nhiều lần nhấn mạnh, sau đó Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá
vấn đề "trở thành dân tộc" trong lý luận Mác-Lênin phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam nơi mà chủ yếu là nông dân và các thành phần yêu nước khác,
còn giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Dưới ánh sáng lý luận Mác- Lênin và từ
thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công
nhân mà không triệt tiêu vấn đề dân tộc trong Đảng; nói "Đảng của dân tộc
Việt Nam" mà không làm mất và giảm lập trường giai cấp; ngược lại là một
minh chứng hùng hồn cho "Đảng của giai cấp công nhân". Bản chất giai
cấp của Đảng càng sâu sắc thì tính dân tộc càng đậm nét; tính dân tộc càng đậm
nét thì càng làm cho tính giai cấp sâu sắc hơn. Hai tính chất này bổ sung cho
nhau để khẳng định một đảng cách mạng chân chính theo đúng nguyên lý Đảng kiểu
mới của Lênin, nhưng ra đời và trưởng thành ở một nước thuộc địa.
Căn cứ vào luận điểm kinh điển và tuân thủ những quan điểm của Lênin về xây
dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản thì chỉ cần khẳng định Đảng ta là "Đảng của
giai cấp công nhân" là đủ. Nhưng một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh
là Người đã bổ sung một vế "đồng thời cũng là Đảng của dân tộc Việt
Nam". Vì thế, cần thấm nhuần bản lĩnh và trí tuệ của Người trên mấy
mặt:
Một là, về mặt bản chất giai cấp
của Đảng thì chỉ có một, đó là Đảng mang bản chất giai cấp
công nhân, nhưng cơ sở xã hội của Đảng là toàn dân tộc.
Mọi công dân Việt Nam – chớ không phải chỉ có giai cấp công nhân- qua thực tiễn
chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét để kết nạp
vào Đảng.
Hai là, Đảng có trách nhiệm to
lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với nhân dân lao động và
cả dân tộc. Trách nhiệm này vừa có tính chiến lược lâu dài, là xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn
minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới, vừa mang tính lợi
ích cụ thể. Hồ Chí Minh khẳng định: "Hễ còn có một người Việt Nam bị
bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn
nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá
lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại
luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời
sống hằng ngày của nhân dân"(5). Trách nhiệm này đồng thời cũng là vinh
dự của Đảng. Bởi vì nếu Đảng làm được điều đó thì Đảng vừa "bao
trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào
ta"(6). Đảng ta không thiên tư thiên vị, lo việc cho cả nước. Ngoài
lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì
khác. Đó là một trong những lý do làm cho Đảng ta vĩ đại.
Ba là, Đảng của dân tộc Việt Nam nghĩa là Đảng
có một cội nguồn vững chắc tạo nên sức mạnh to lớn cho Đảng là dân
tộc; đó là những "đồng bào" tuy chưa phải là đảng viên nhưng
vẫn luôn tự hào nói tới "Đảng ta". Vì vậy, nói tới Đảng
của dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, thì một yêu cầu
cơ bản, xuyên suốt đối với Đảng là Đảng phải gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám
sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.
Tóm lại, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam là
một luận điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về
Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hạt nhân sáng tạo thể hiện trí tuệ
và bản lĩnh của Hồ Chí Minh ở luận điểm này là những yếu tố yêu
nước và dân tộc, trên lập trường giai cấp công nhân, dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Trước đây, trong thập kỷ ba mươi, có lúc Hồ Chí Minh bị
hiểu lầm, bị đánh giá là nặng về dân tộc, nhẹ về giai cấp, là người "dân
tộc chủ nghĩa". Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy việc gắn bó hữu cơ
giữa giai cấp và dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Bước vào thập kỷ sáu mươi, khi
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tồn tại cả khuynh hướng giáo điều
và xét lại, nhưng Hồ Chí Minh vẫn đầy đủ bản lĩnh, không sợ bị quy kết vào
khuynh hướng xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Người cũng không rơi vào bệnh dập
khuôn, giáo điều mà vươn tới tầm nhìn biện chứng, sáng tạo giữa tính giai cấp
và tính quần chúng, giữa giai cấp và dân tộc. Điều này không chỉ có ý nghĩa
trong cách mạng giải phóng dân tộc, mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiên nay, Đảng ta xác định
xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Về
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân. Đảng ta nhấn mạnh việc học tập và vận dụng nhuần
nhuyễn tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng, đấu tranh chống suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống,
chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Gốc rễ của vấn đề là Đảng gắn bó với
dân, lấy dân làm gốc. Đảng đồng hành cùng dân tộc. Đảng lãnh đạo nhưng dân làm
chủ. Bác Hồ dạy “ có dân là có tất cả”. Nếu “ cách xa dân chúng, không liên hệ
chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”
(7). Đảng ta trong công cuộc đổi mới đã rút ra bài học quan trọng: “ Từ trước
đến nay, bất cứ việc gì đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, của toàn Đảng,
được nhân dân và toàn Đảng đồng lòng góp sức thì nhất định thắng lợi (8). Gần
đây, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), một trong
những vấn đề đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng được nêu lên là Đảng ta xác định bản chất giai cấp của Đảng: “
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(9). Đây
chính là Đảng ta đã thật sự trở lại tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp
của Đảng. Quán triệt sâu sắc và làm đúng điều này là một động lực của tiến trình
cách mạng.
* Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo các nguyên lý đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân.
* Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta
là một đảng cách mạng… Đảng ta là một đảng lãnh đạo”. Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân là vì dân. Vì dân là điểm xuất phát và
cũng là nội dung, là mục tiêu phấn đấu của Đảng. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn
mạnh: Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân
dân, của dân tộc; Đảng không có mục đích nào khác là phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân…Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân”. Đây là một luận điểm cách mạng, khoa học của Hồ Chí Minh, là một
đóng góp quan trọng vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Luận điểm này đã chỉ rõ vấn đề bản chất nhất trong mối quan hệ giữa một đảng
cộng sản cầm quyền với quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đày tớ của nhân dân không hề có sự mâu thuẫn, mà đó là
hai mặt gắn bó, thống nhất chặt chẽ, không thể tách rời của một vấn đề, mặt này
làm điều kiện, làm tiền đề của mặt kia và chỉ có làm tốt cả hai chức trách
tưởng chừng như đầy mâu thuẫn này thì một đảng cộng sản mới có thể hoàn thành
tốt sứ mệnh của mình.
Người chỉ rõ, đảng viên, cán bộ muốn xứng
đáng là người lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn là người “lãnh đạo đúng
nghĩa” thì:
"1. Phải quyết định mọi vấn đề một
cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân
chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo
của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà
muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm
soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”(1).
Qua chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về cách “lãnh
đạo đúng” có thể thấy được trong đó, hai mặt lãnh đạo và đầy tớ thống nhất với
nhau một cách hết sức tự nhiên, tất yếu, hòa hợp trong một chủ thể duy nhất là
Đảng. Vì Đảng lãnh đạo mọi công việc của Nhà nước, của xã hội trước hết bằng
nghị quyết, chủ trương, đường lối. Muốn có chủ trương, đường lối đúng thì đường
lối đó phải lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh làm hệ quy chiếu nền tảng để xây
dựng; lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc làm nguyên tắc bất biến. Đường lối đó
phải lấy nhân dân làm trung tâm, đáp ứng đúng nhu cầu của cuộc sống, những
nguyện vọng chân chính của nhân dân, được nhân dân tin theo và ủng hộ; “ý Đảng”
phải chính là “lòng dân”.
Muốn thực hiện được chủ trương, đường lối
đã xác định, Đảng phải học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, phải nhờ đến sức
người, sức của từ nhân dân để thực hiện, phải cần nhân dân kiểm soát. Như vậy,
Đảng lãnh đạo là “vì dân”, đường lối của Đảng thực hiện được là “nhờ dân”, và
cũng do vậy “người lãnh đạo” cũng thực sự là “người đầy tớ” một cách hết sức tự
nhiên, hài hòa.
Để có đường lối đúng và đường lối đó nhanh
chóng đi vào cuộc sống, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải
là những người có trí tuệ, có bản lĩnh, dày dạn kinh nghiệm thực tiễn và đặc
biệt phải hết sức gương mẫu, phải là những người dám hy sinh quyền lợi cá nhân
vì lợi ích của tập thể, vì lợi ích của dân tộc và trong đó còn vì lợi ích của
người khác. Đó phải là những người luôn luôn vững vàng “đi trước” trong gian
khó, để quần chúng tin tưởng “theo sau”; phải là những người thật sự “cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “khổ trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ”.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng sớm nhìn thấy
và cảnh báo về những “mặt trái”, những căn bệnh trong thực tiễn lãnh đạo của
một Đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng có quyền lực chính trị, có quyền lãnh đạo
đất nước, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thì cán bộ, đảng viên dù
ít, dù nhiều đều có quyền hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ.
Có chức quyền, cán bộ, đảng viên rất dễ sa vào quan liêu, tham nhũng, xa hoa,
muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, xa rời nhân dân, đứng trên nhân dân, ức
hiếp nhân dân. Người phê phán nghiêm khắc các biểu hiện suy thoái “Miệng thì
nói dân chủ, nhưng việc làm thì theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự
quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng…”(2). Tất cả
những căn bệnh trên được Hồ Chí Minh coi là “giặc nội xâm”, là một trong những
nguyên nhân chính làm suy yếu sức mạnh tổ chức của Đảng, trực tiếp đe dọa vai
trò cầm quyền của Đảng.
Để khắc phục vấn đề này, Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh: Cán bộ, đảng viên không những là người lãnh đạo quần chúng mà
còn phải luôn xác định mình là đày tớ, là công bộc, là người phục vụ lợi ích
của nhân dân. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên, mọi cơ
quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập,
trở thành Đảng cầm quyền, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng, Hồ Chí Minh đã đặc biệt lưu ý cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính
quyền các cấp: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc
cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân,
chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật”(3). Đây chính là sự khác biệt về bản chất của nhà nước của dân, do dân,
vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân là chủ thì chủ
tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ
cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng”.
Đày tớ của nhân dân, cũng có nghĩa là “Nếu
dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi”(4). Cán bộ, đảng viên không những phải “yêu dân”, “kính dân”, mà còn phải
biết ơn nhân dân vì chúng ta (cán bộ, đảng viên) phải biết rằng: “cơm chúng ta
ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân
dân mà ra”(5). Đày tớ của nhân dân, đó là những người “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6).
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng, bên cạnh địa vị, trí tuệ là
một “nhà lãnh đạo” đều phải có tinh thần làm việc của một “người đày tớ”. Đó là
một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, không thể tách rời trong phương pháp và
phong cách làm việc của Đảng. Điều này là không hề mâu thuẫn vì cái chung của
“người lãnh đạo xứng đáng” và “người đày tớ trung thành” là vì dân, phục vụ lợi
ích nhân dân. Vì để là người lãnh đạo xứng đáng thì phải có đường lối, chủ trương
hợp lòng dân, vì lợi ích của quần chúng nhân dân…mà muốn vậy thì người lãnh đạo
phải thật sự gần dân, hiểu dân, phải thật sự ngày đêm trăn trở với lợi ích của
dân, phải thật sự vì dân phục vụ - đó cũng là người đày tớ của nhân dân.
* Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên
chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng đã và đang chỉ đạo thực tiễn cách mạng nước ta, xây dựng Đảng ta ngày
càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ thật sự trung thành của nhân dân. Để tiếp tục giải quyết “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực không ngừng học tập và làm theo tư
tưởng của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang chỉ đạo thực tiễn cách mạng nước ta, xây
dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân. Để tiếp tục giải quyết
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” theo Nghị quyết Trung ương
4, khóa XI, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực không ngừng học tập
và làm theo tư tưởng của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác -
Lê-nin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận điểm: Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân,
đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam; Đảng phải được xây dựng theo những
nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng phải thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân thực hiện đường lối đó một cách có hiệu quả nhất. Đảng muốn giữ được vai
trò lãnh đạo, được dân tin, dân phục, dân yêu thì một vấn đề căn bản là, trong
Đảng “từ Trung ương tới các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(1).
0 Comments