Tổng hợp kiến thức phần Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tổng hợp kiến thức phần Tư tưởng Hồ Chí Minh

1.  Bối cảnh ra đời và nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Bối cảnh ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Bối cảnh thế giới
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền (CNĐQ), xác lập sự thống trị của chúng trên phạm vi thế giới.
Sự chuyển biến này đã làm biến chuyển tình hình thế giới với việc các nước tư bản lớn đi xâm chiếm thuộc địa, hình thành một hệ thống thuộc địa rộng lớn gấp nhiều lần diện tích lãnh thổ các nước đế quốc. Bên trong nước thì chúng tăng cường bóc lột công nhân và nhân dân lao động, bên ngoài thì chúng tranh giành, xâu xé nô dịch nhân dân các nước và các dân tộc nhỏ yếu. Chỉ 9 nước đế quốc đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới : Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha… Chúng tiến hành vơ vét của cải tại các nước thuộc địa, đồng thời biến các nước thuộc địa thành thị trường tiêu thụ hàng hóa dư thừa từ các nước chính quốc. Bên cạnh đó chúng còn dùng binh lính ở các nước thuộc địa làm là chắn đạn trong chiến tranh xâm lược và trong chiến tranh với các nước tư bản khác trong Chiến tranh thế giới lần I. Phần lớn các nước ở châu Á, châu Mỹ la tinh, châu Phi đã trở thành các nước thuộc địa hoặc nửa phụ thuộc.
=> Hệ quả: Chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh một mâu thuẫn mới trên phạm vi thế giới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân (mâu thuẫn dân tộc).
Trong thời kỳ này trong lòng xã hội tư bản tồn tại một số mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; giữa đế quốc với đế quốc.
Mâu thuẫn mới nảy sinh giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân với nhân dân và dân tộc các nước bị xâm lược ngày càng trở lên gay gắt, và nó trở thành một trong những mâu thuẫn lớn của thời đại, đòi hỏi phải được giải quyết. Yêu cầu giải phóng các dân tộc thuộc địa không chỉ là yêu cầu riêng của các dân tộc thuộc địa mà còn là yêu cầu của các dân tộc trên thế giới. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc đia chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
Sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á mở đầu bằng cách mạng Nga 1905 đã tạo nên một cao trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các nước phương Đông đòi các quyền dân sinh dân chủ (Ấn Độ, Trung Quốc, Inddonexxia).
Sự phát triển không đồng đều của CNTB đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, đã gây ra chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) nhằm chia lại thị trường giữa 2 phe.
- Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga lập ra một nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã thực sự là chủ của nhà nước, giai cấp và con người được giải phóng hoàn toàn. Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại đã tạo tiền đề, điều kiện cơ bản thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển nhanh chóng. Chủ nghĩa Mác từ lý luận trở thành hiện thực, từ đây chủ nghĩa Mác trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam, hay nói như Hồ Chí Minh là “cẩm nang thần kỳ” cho các nước thuộc địa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đi theo.
Người đã nhận xét: “Giống như ánh mặt trời chói lọi, cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu. Thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột “. Từ đó HCM cũng đã vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường cách mạng vô sản và chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng đồng thời làm nảy sinh một mâu thuẫn mới mang tính thời đại: mâu thuẫn giữa CNXHCNTB, thực chất là mâu thuẫn: Vô sản – tư sản.
- Quốc tế Cộng sản thành lập (1919), đánh dấu bước phát triển mới về chất của phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới.
Quốc tế Cộng sản là trung tâm tập hợp lực lượng cách mạng và chỉ đạo cách mạng thế giới; đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản ở các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng ở các nước đi đúng hướng. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin có vai trò quan trọng đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có thể thấy rằng: chính nhờ bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc có một cái nhìn toàn diện hơn và nhờ đó Người đã tìm thấy và lựa chọn đúng đắn con đường cứu dân, cứu nước, cũng chính từ đó tư tưởng của Người bước đầu được hình thành.
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có 2 điểm nổi bật sau:
- Vào giữa thế kỷ XIX,Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập, sau khi bị CNTB Pháp xâm lược năm 1858 đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ, công nghiệp thì hầu như là không có, giao thương không phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn trong khi đó nhà Nguyễn lại thực hiện chính sách hết sức phản động là bế quan tỏa cảng, ngăn cản sự giao lưu với thế giới. Làm cho nước ta ngày một suy yếu, tụt hậu.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), trong thời gian ngắn thực dân Pháp đã hoàn thành quá trình xâm lược nước ta và tiến hành khai thác thuộc địa, biến nước ta từ một nước độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Hàng loạt các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra mạnh mẽ theo các xu thế khác nhau, nhưng đều thất bại.
+ Theo xu thế phong kiến (tiêu biểu là phong trào Cần Vương)
+ Nông dân (khởi nghĩa Yên Thế của Hoang Hoa Thám)
+ Phong trào của tư sản lãnh đạo (do Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh)
Nhìn chung các phong trào diễn ra sôi nổi, gây nhiều tiếng vang, gây cho Pháp nhiều thiệt hại, khẳng định được truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân ta, duy trì phong trào đấu tranh trong nhân dân, nhưng kết quả hầu hết thất bại, các nhà lãnh đạo bị bắt, tù đày hoặc thực dân Pháp giết hại… Từ đó dẫn đến sự khủng hoảng đường lối của phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
P Thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn
P Các phong trào đấu tranh nổ ra lẻ tẻ, thiếu gắn kết
P Không tập hợp được đông đảo nhân dân vào sự nghiệp cứu nước
Như vậy, có thể thấy rằng các phong trào yêu nước của nước ta trong thời kỳ này diễn ra rất sôi nổi. Điều đó cho thấy sự phát triển của phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên do còn có nhiều hạn chế nên các phong trào đó đều đi đến thất bại. Điều đó dẫn đến sự khủng hoảng đường lối và yêu cầu phải có 1 con đường cứu nước mới, phù hợp với nước ta.
Trước những đòi hỏi khách quan của dân tộc và nhân loại, Hồ CHí Minh và tư tưởng của Người đã xuất hiện. Sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam và thế giới trong điều kiện lịch sử mới.
Như vậy, bối cảnh thế giới và bối cảnh trong nước tác động rất lớn tới việc quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đó là đòn bẩy, động lực cũng như đã đưa Hồ Chí Minh đến với con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Tác động lớn tới việc hình thành nên tư tưởng của Người.
2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống giữ nước và dựng nước, truyền thống đoàn kết cộng đồng dân tộc và truyền thống văn hoá nhân ái Việt Nam.
Những truyền thống đó đã được hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường bất khuất, tự lập, tự cường, chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc và bảo tồn phát triển nền văn hiến của đất nước.
- Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực tự cường để dựng nước và giữ nước được hun đúc qua hàng ngàn năm.
Là chuẩn mực cao nhất trong giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam và Hồ Chí Minh cũng đã nhận xét: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước” .
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó cũng là động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người. Chính Người đã tự nhận: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
- Tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ xuất hiện, được nuôi dưỡng trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Trong quá trình xây dựng đất nước con người Việt Nam phải thích nghi với thiên nhiên, vừa khai phá những tài nguyên để phục vụ cuộc sống, vừa chống chọi với thiên nhiên trong lao động sản xuất cũng như đấu tranh chống lại các thế lực thù địch từ bên ngoài, đã sớm tạo nên không chỉ sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó với quê hương, mà điều quan trọng và đầy ý nghĩa nhân văn cao cả là hình thành nên tinh thần yêu quê hương đất nước, yêu thương con người.
Người Việt Nam sống trong tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Điều này được thể hiện trong ca dao, tục ngữ truyền lại từ bao đời nay :
+Lá lành đùm lá rách
+Bầu ơi thương lấy bí cùng
+Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ...
Đến Hồ Chí Minh, Người nhấn mạnh tinh thần này bằng bốn chữ “Đồng”: “Đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh”. Người nói: “Những người cùng lao động trong một nhà máy, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết và thương yêu nhau như anh em trong một gia đình. Rộng ra hơn nữa là đồng bào cả nước là anh em trong một đại gia đình”.
Những giá trị tốt đẹp của dân tộc biểu hiện trong kinh tế, xã hội, văn hóa,… làm cho mối quan hệ Nhà – Làng – Nước trở nên bền chặt và dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Nước mất dựa vào làng để khôi phục nước, từ liên kết nhà, gia đình để giữ làng, liên kết làng để giữ nước.
·            Dũng cảm, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất và trong chiến đấu. Việt Nam là một dân tộc cần cù, hiếu học. Các triều đại phong kiến từ Lý, Trần, Lê đến Nguyễn đều rất coi trọng việc học, coi trọng hiền tài. Năm 1070 nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám tuyển chọn người tài đức ra giúp dân giúp nước.
Việt Nam cũng luôn mở rộng đón nhận những giá trị văn minh nhân loại để bảo tồn dân tộc và phát triển đất nước. Thu nhận cái hay để tồn tại và phát triển chính là tư duy mở và mềm dẻo của con người Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam còn là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Trong muôn vàn khó khăn, vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan đó khiến cho mỗi con người Việt Nam luôn tin vào tính tất thắng của chân lý và chính nghĩa dù cho có khó khăn, “Hôm nay châu chấu đá voi. Ngày mai voi sẽ bị lòi ruột ra”.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị tốt đẹp của dân tộc trên cơ sở của giá trị cơ bản nhất, đó là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Tóm lại: Chính chủ nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam là cội nguồn, là giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp, là động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để Hồ Chí Minh lựa chọn, tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao của nó là chủ nghĩa Mác - Lênin.
2.2. Tinh hoa văn hoá phương Đông, phương Tây
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã được trang bị và hấp thụ nền Quốc học và Hán học khá vững vàng, chắc chắn. Trên hành trình cứu nước, Người đã tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mình và phục vụ cho cách mạng Việt Nam.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông (Nho giáo, Phật giáo…); đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá phục hưng, của cách mạng tư sản phương tây và cách mạng Trung Quốc, tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng tư sản Pháp. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của những tinh hoa văn hóa của nhân loại, văn hoá phương Đông, phương Tây.
Vì vậy ở Hồ Chí Minh ta có thể nhận thấy như nhà thơ Oxip Madenstam: “Từ Hồ Chí Minh tỏa ra một thứ văn hóa, không phải của văn hóa châu Âu, mà là nền văn hóa của tương lai”,
Lúc đấu tranh, Hồ Chí Minh có thể viết văn Anh, văn Pháp, sắc sảo như 1 nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có nhu cầu tự bạch thì Người lại làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một con người tượng trưng cho sự kết hợp hài hoà văn hoá nhân loại: Đông, Tây, cổ và kim.
2.2.1. Tinh hoa văn hoá Phương Đông
+ Phật giáo:
Phật giáo vào Việt Nam từ đầu thiên niên kỷ thứ I và trở thành quốc giáo thời Lý và thời Trần, có ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy, hành động của con người Việt Nam từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục tập quán, lối sống. Tất nhiên Phật giáo là tôn giáo nên có nhiều mặt tiêu cực khó tránh khỏi. Nhưng những mặt tích cực cũng để lại những dấu ấn rất sâu sắc trong tư duy, hành động và ứng xử của người dân Việt Nam:
Thứ nhất là: Tư tưởng vị tha từ bi bác ái, thương yêu con người.
Thứ hai là: nếp sống có đạo đức, giản dị, đề cao lao động.
Thứ ba là: tinh thần dân chủ chất phác chống phân biệt mọi đẳng cấp; tinh thần đại đồng “tư tưởng lục hòa”.
Phật giáo vào Việt Nam gặp chủ nghĩa yêu nước đã hình thành nên các hệ phái khác nhau, trong đó nổi bật nhất là Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với dân tộc, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc. Như thế có thể nói, những mặt tích cực của Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của phật giáo một cách có chọn lọc để hình thành và phát triển nhân cách, phẩm chất, lòng yêu thương con người.
+ Nho giáo:
Nho giáo vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Song khi gặp dòng chủ lưu cơ bản của tư tưởng Việt Nam đã hình thành nên một trào lưu Nho giáo yêu nước Việt nam. Nho giáo Việt Nam lấy yêu nước – nhân văn Việt Nam làm đạo lý để làm người. Nho giáo tồn tại ở nước ta hàng ngàn năm, nó được biểu hiện qua những chuẩn mực:
Triết lý hành động tích cực: nhập thế hành đạo giúp đời.
Tư tưởng về 1 xã hội bình trị
Triết lý nhân sinh “tu dưỡng nhân tính, đạo đức”.
Đề cao văn hoá, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học trong nhân dân. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa của Nho giáo, từ các nhà hiền triết của Nho giáo mà chủ yếu là tư tưởng của Khổng Tử. Hồ Chí Minh đã từng nhận xét :
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”.
Chúng ta thấy, trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh sử dụng khá nhiều mệnh đề của Nho giáo đưa vào đó những nội dung và ý nghĩa mới. Ví dụ như mệnh đề Trung – hiếu. Tư tưởng đạo đức truyền thống đó là trung với vua, hiếu với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển đưa nó trở thành phẩm chất đạo đức quan trọng bậc nhất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đó là Trung với nước – hiếu với dân.
Trong khi tiếp thu, sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã phê phán, loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết đó.
+ Thuyết Tam dân - Tôn Trung Sơn: (1866 -1925)
Năm 1924, Hồ Chí Minh về Trung Quốc đã tìm hiểu thêm chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.
Thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn với ưu điểm đó là khẩu hiệu: Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc.
Hồ Chí Minh nhìn nhận: “ Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta”, cho nên Người đã tiếp thu phát triển xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, với mục tiêu là độc lập - tự do - hạnh phúc. Đây chính là sự vận dụng chủ nghĩa Tam dân của Hồ Chí Minh vào tình hình cụ thể của nước ta.
2.2.2. Tinh hoa văn hoá Phương Tây
- Những tri thức văn hoá phương Tây đầu tiên mà Hồ Chí Minh tiếp nhận là lý tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” đã trở thành động lực để Người hướng sang phương Tây tìm con đường cứu nước cho dân tộc mình.
Hồ Chí Minh tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ nhỏ. Từ môi trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đã được đọc một số tờ báo tiến bộ và bước đầu làm quen với nền văn hoá Pháp: “ “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp: Tự do - Bình đẳng - Bác ái… Thế là tôi rất muốn làm quen với với văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy... Tôi tìm cách ra đi nước ngoài”. Như vậy, việc Nguyễn Tất Thành sang phương Tây năm 1911 một phần cũng bởi sức hấp dẫn của những giá trị dân chủ tư sản được kết tinh trong khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái của đại cách mạng Pháp.
- Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hoá phương Tây. Người đã tiếp thu tư tưởng dân chủ và cách mạng từ các nhà tư tưởng khai sáng.
Trong quá trình tìm tòi con đường cứu nước, Hồ Chí Minh có dịp tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới: CM tư sản Pháp, Anh, Mỹ. Người đã đúc rút kinh nghiệm từ những cuộc cách mạng này để tìm một con đường mới cho dân tộc. Tiếp thu, xác nhận quyền độc lập dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ (1776), tư tưởng về dân quyền và nhân quyền trong bản Tuyên ngôn của cuộc đại cách mạng Pháp (1789).
Hồ Chí Minh sống và hoạt động ở nước ngoài hơn 30 năm mà chủ yếu sống ở Châu Âu nên Người chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa phương Tây - đó là tư tưởng dân chủ và cách mạng.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Vonte, Rutxô, Môngtetxkiơ…. Những tác phẩm đó đã ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và tri thức tiến bộ Pháp như Casanh, Cutuyariê, Môngmútxô… đã từng bước trưởng thành.
Cũng như khi đến với những giá trị văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hoá phương Tây với tinh thần chọn lọc phê phán, người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng và văn hoá ấy lên một trình độ mới phù hợp với yêu cầu mới của dân tộc và thời đại.
Nếu như Mác, Ăngghen, Lênin đều là những nhà tư tưởng kiệt xuất chưa ra khỏi châu Âu bao giờ thì Hồ Chí Minh đã đi hầu như khắp nơi trên thế giới, làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ thời đại, Đông và Tây. Vừa thâu hái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển hết sức đặc sắc.
2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại mới.
Từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh hoạt động trong Đảng Cộng Sản Pháp, trong quốc tế cộng sản và trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc. Ở đây Hồ Chí Minh được tiếp xúc với các văn kiện của Quốc tế Cộng Sản, được đọc các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin. Người đã tham dự các lớp học lý luận của Quốc tế Cộng sản và được tiếp xúc với nhiều lãnh tụ cộng sản của nhiều nước.
Tác động biện chứng của mối quan hệ giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức được bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp biện chứng mácxit mà vấn đề cốt tử là lý luận luôn gắn với thực tiễn cách mạng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một bộ phận của văn hóa phương Tây, nhưng là bộ phận tinh túy nhất, là cơ sở lý luận chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Vai trò đó thể hiện:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống dân tộc, văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây, nhưng chưa tạo ra được bước ngoặt trong tư tưởng, bước ngoặt ấy chỉ diễn ra khi bắt gặp và tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin. Bằng sự kiện Người đọc Luận cương của Lênin. Tác phẩm của Lênin đã chỉ ra mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ Lênin mà Người đã tìm thấy “cái cần thiết cho chúng ta”, “con đường giải phóng chúng ta” và cũng từ Lênin, Người quay lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn.
Thứ hai, thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận và đánh giá, phân tích, hấp thụ và chuyển hóa những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc, các học thuyết tư tưởng đương thời cũng như kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con đường cách mạng đúng đắn.
Từ đây Hồ Chí Minh tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam., khẳng định cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi không có con đường nào khác ngoài CM vô sản, và chỉ có CM vô sản mới giải phóng được dân tộc Việt Nam.
Người chỉ ra rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin.
Bằng hoạt động thực tiễn phong phú đã tạo nên một bản lĩnh trí tuệ giúp Hồ Chí Minh lựa chọn và tin theo chủ nghĩa Mác- Lênin. Do được trang bị một vốn học vấn chắc chắn, năng lực trí tuệ sắc sảo cho nên khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn mà vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Khác với nhiều trí thức phương Tây đến với CN Mác-Lênin chủ yếu như đến với 1 học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam .
Như vậy, phải khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác – Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới bằng thực tiễn ở một nước thuộc địa là Việt Nam.
2.4. Trí tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
Đây là nguồn gốc trực tiếp, nguồn gốc chủ quan hình thành nên TTHCM.
Tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người tạo ra và khái quát trên cơ sở nhận thức những nhân tố khách quan.
Vào đầu thế kỷ XX có bao nhiêu người Việt Nam sang Pháp học tập, trong số đó có nhiều người tham gia Đảng Xã hội Pháp, có những người cũng đã đọc Luận cương của Lênin nhưng lại chỉ có một mình Nguyễn Ái Quốc tìm thấy trong đó con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng dân tộc các dân tộc thuộc địa, chỉ có một mình Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp trong hoàn cảnh đó.
Vậy những nhân tố nào đã giúp cho người tìm đường gặp gỡ người dẫn đường trong cùng một phương hướng suy nghĩ? Đó chính là do phẩm chất chủ quan của Hồ Chí Minh. Những nhân tố đó đã quyết định đến việc Người tiếp thu những tinh hoa văn hoá của dân tộc, nhân loại mà tiêu biểu là chủ nghĩa Mác - Lênin để hình thành nên tư tưởng của mình.
Phẩm chất chủ quan của Hồ Chí Minh có thể kể đến 3 phẩm chất cơ bản:
- Trước hết là những phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh mà nổi bật là ý chí quyết tâm của một người yêu nước, thương dân và nhiệt thành cách mạng.
Đây là phẩm chất cao quý của Người, là động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, cả đời Người phấn đấu vì “một ham muốn, ham muốn đến tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chính vì vậy mà Người sẵn sàng hy sinh chịu đựng những gian khổ, tất cả đều vì độc lập của Tổ quốc, Tự do của nhân dân, hạnh phúc của con người.
Hồ Chí Minh từng nói: Cái tôi cần nhất là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.
- Đó là tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh mà biểu hiện ở sự kiên trì học tập tiếp thu vốn tri thức của dân tộc và nhân loại, là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường.
Sự kiên trì học tập, ham học hỏi để tiếp thu vốn trí thức của dân tộc và nhân loại thì đó chính là việc Hồ Chí Minh tiếp nhận truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoa phương Đông, phương Tây.
Hồ Chí Minh có thể nói thông thạo, viết thạo nhiều thứ tiếng trên thế giới như một người bản địa vậy. Người còn là một nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà giáo dục, nhà cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam.
Nhờ tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, chính vì vậy, mà con đường ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành khác với các nhà cách mạng tiền bối về hướng đi, cách đi và mục đích đi” để tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc.
Về hướng đi, nói chung các nhà cách mạng tiền bối tìm đường sang các nước phương Đông, với một suy nghĩ là cùng là da vàng tóc xoăn thì nhất định giúp nhau. Còn Nguyễn Tất Thành lại sang Châu Âu, sang Pháp, quê hương của “Tự do, bình đẳng, bác ái”, quê hương của văn minh, của những người dân hiền hòa, mến khách nhưng cũng là nơi có bọn đế quốc tàn ác đang đô hộ nước mình.
Về cách đi, các nhà cách mạng tiền bối ra đi nhờ sự giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức yêu nước, còn Nguyễn Ái Quốc ra đi bằng chính sức lao động của mình. Trong thời gian ở nước ngoài Người đã làm rất nhiều nghề để sống và hoạt động từ cào tuyết, làm bánh, làm ảnh…chính vì thế Người đã sớm hòa mình vào quần chúng lao động, điều đó giúp Người dễ dàng tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như thấu hiểu, đồng cảm với nỗi đau mất nước, bị áp bức của nhân dân các dân tộc thuộc địa từ đó càng thêm quyết tâm tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn, phù hợp, để không những giải phóng cho dân tộc mình mà còn giải phóng cho các dân tộc khác trên thế giới.
Về mục đích đi, các nhà cách mạng tiền bối ra nước ngoài nhờ cầu viện. Còn Bác ra nước ngoài là để học hỏi, quan sát xem người ta làm thế nào rồi về giúp đồng bào mình.
Người tiếp thu phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không sao chép giáo điều. Người nói: Học chủ nghĩa Mác-Lênin là “Không phải học thuộc lòng từng câu, từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nhưng chúng ta học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho phù hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta”.
Ngoài tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh còn có một đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới để không bị đánh lừa bởi những hào nhoáng bên ngoài.
Năng lực hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh giúp Người đúc kết kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng một cách đúng đắn vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh có khả năng phân tích và dự báo tình hình một cách thiên tài. Nhờ khả năng này mà Bác có thể đưa ra những dự báo cho cách mạng Việt Nam, kịp thời có thời gian chuẩn bị và giành thắng lợi to lớn.
Như vậy chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã quyết định việc NAQ tiếp nhận, chọn lọc, vận dụng và phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại mà đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin thành tư tưởng đặc sắc của mình. Tài năng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh là nguồn gốc trực tiếp hình thành nên tư tưởng Người.
Tóm lại, TTHCM là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và sự vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
* Khái niệm đoàn kết, đại đoàn kết:
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
- Trong buổi nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên-Việt toàn quốc (10/01/1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết như sau: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
- Đại đoàn kết xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng nhân dân tiến hành và vì lợi ích của quần chúng. Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ đường lối chiến lược của cách mạng.
* Khái niệm tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh:
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò, nội dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam
1.2.1. Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế: “Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất”, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”, “Đoàn kết là then chốt của thành công”, “Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
1.2.2. Đại đoàn kết là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng
- Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo sức mạnh cho cách mạng, sức mạnh đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
- Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
1.3. Nội dung đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Đại đoàn kết dân tộc
1.3.1.1. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
- Bao gồm mọi giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái,...
- Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
1.3.1.2. Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
- Mặt trận dân tộc thống nhất là một liên minh chính trị nhằm đoàn kết rộng rãi các tổ chức yêu nước vào một khối thống nhất, đấu tranh vì độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất để tập hợp đoàn kết lực lượng của toàn dân. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, do mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể đặt ra, Đảng đã lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận thích hợp.
+ Ngày 18/11/1930, Thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh.
+ Những năm 1936-1939 ra đời Mặt trận dân chủ.
+ Những năm 1939-1940 ra đời Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
+ Từ năm 1941, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) với các tổ chức quần chúng yêu nước là Hội cứu quốc.
+ Tháng 5/1946, thực hiện chủ trương của Đảng về mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập.
+ Ngày 3/3/1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt
+ Ngày 10/9/1955, thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc, khi mới được giải phóng và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
+ Ngày 20/12/1960, ở miền Nam thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
+ Ngày 20/4/1968 thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam.
+ Tháng 2/1977, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, các tổ chức mặt trận của hai miền thống nhất thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hoạt động trong thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đến ngày nay.
- Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải xây dựng Mặt trận theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, Mặt trận phải lấy liên minh công-nông-trí thức làm nền tảng. Liên minh công-nông-trí thức có vững, Mặt trận mới bền vững, lâu dài được. Đây là yếu tố cần. Còn yếu tố đủ là Mặt trận phải đoàn kết với các tầng lớp yêu nước khác để mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết.
Hai là, Mặt trận do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc đề ra chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cuộc cách mạng; bằng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục; thông qua tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên. Đảng phải thể hiện sự lãnh đạo đó theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng tổ chức và xây dựng Mặt trận phù hợp với từng thời kỳ.
1.3.1.3. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
- Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất những lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người khẳng định rằng: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do. Dân tộc Việt Nam có quyền được hưởng tự do, độc lập. Người cho rằng: nước được độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì nền độc lập ấy cũng không có nghĩa lý gì. Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là chìa khóa vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
- Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
+ Tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh vừa là sự kế thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “dân là gốc của nước”, vừa là sự quán triệt sâu sắc trong nhận thức, tình cảm và hành động theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
+ Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống và chiến đấu vì nhân dân là nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn cách mạng của Hồ Chí Minh.
+ Nguyên tắc tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
• Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết.
• Dân là chủ thể của đại đoàn kết.
• Dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối địa đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng.
• Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị.
- Thứ ba, đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ.
+ Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh.
+ Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết trên lập trường vô sản, theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là một tập hợp có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công-nông-trí thức.
+ Hồ Chí Minh nêu rõ: Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững nhà mới chắc, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi.
Điểm nổi trội, sức mạnh bất diệt, nguyên tắc bất di bất dịch của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là đại đoàn kết phải xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công-nông-trí thức làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người cho rằng trong đoàn kết phải có đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết:
1.3.1.4. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
- Phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục
Tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục nhằm thức tỉnh mọi người, để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong Mặt trận. Người yêu cầu:
+ Nội dung tuyên truyền phải vừa đáp ứng những nguyện vọng, quyền lợi cơ bản của mỗi dân tộc, mỗi giai cấp, vừa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
+ Hình thức tuyên truyền phải ngắn gọn, dễ hiểu, vừa tri thức, vừa bình dân, vừa sâu sắc, vừa giản dị; phải bằng ngôn ngữ thông thường gần gũi với mọi người dân Việt Nam.
- Phương pháp tổ chức: Muốn xây dựng, củng cố đại đoàn kết, theo Hồ Chí Minh cần phải có phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
+ Là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải đề ra được đường lối đại đoàn kết đúng đắn; Đảng phải đoàn kết, thống nhất cả trong tư tưởng lẫn hành động, từ trên xuống dưới; Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, tự giác; đảng viên là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
+ Để Nhà nước đề ra chính sách thực hiện đại đoàn kết đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với thực tiễn, Hồ Chí Minh yêu cầu: phải xây dựng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân; phải không ngừng cải cách bộ máy hành chính và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cán bộ công chức nhà nước phải tận tụy, trung thành phục vụ nhân dân, phải là “công bộc của dân”.
+ Mặt trận là tổ chức rộng rãi nhất, liên quan trực tiếp việc tập hợp, đoàn kết dân tộc. Do vậy, Mặt trận càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn kết càng mạnh mẽ, bền chặt bấy nhiêu.
- Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ.
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là phương pháp xử lý khoa học mối tương quan ba chiều giữa: cách mạng-trung gian-phản cách mạng, nhằm mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức thấp nhất trận tuyến thù địch.
+ Đối với lực lượng cách mạng: Khai thác, phát huy những điểm thống nhất, tương đồng; hạn chế, khắc phục tiến tới xóa bỏ dần những khác biệt về mục tiêu, lợi ích. Sự đoàn kết, thống nhất của lực lượng cách mạng là điều kiện tiên quyết giúp cho cách mạng thành công.
+ Đối với lực lượng trung gian: Xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước; chân thành hợp tác, trọng dụng những người có tài, cso đức ra giúp dân, giúp nước.
+ Đối với lực lượng phản cách mạng: Chủ động, kiên quyết tiêu diệt trên cơ sở phân hóa cô lập chúng cao độ; chú ý khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, lôi kéo những người có thể tranh thủ được; tạm hòa hoãn có nguyên tắc với những lực lượng, bộ phận có thể hòa hoãn được.
1.3.2. Đại đoàn kết quốc tế
1.3.2.1. Lực lượng và hình thức đại đoàn kết quốc tế
* Lực lượng đại đoàn kết quốc tế:
Đối tượng đoàn kết quốc tế được Hồ Chí Minh xác định rất rõ ràng, đó là các lực lượng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào giải phóng dân tộc; phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
* Hình thức đại đoàn kết quốc tế:
+ Đối với các nước láng giềng có chung kẻ thù, chung nguyện vọng là độc lập, tự do, Hồ Chí Minh xây dựng Liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương (Việt Nam-Lào-Campuchia), lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt-Miên-Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
+ Đối với các nước xã hội chủ nghĩa: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh thời đại. Các nước xã hội chủ nghĩa đã có vai trò to lớn trong việc ủng hộ và giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
+ Đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới: Hồ Chí Minh cho rằng, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, là phải xây dựng được khối liên minh chiến đấu giữa vô sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai đầu.
1.3.2.2. Nguyên tắc và phương pháp đại đoàn kết quốc tế
* Nguyên tắc đại đoàn kết quốc tế: Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết quốc tế phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
* Phương pháp đại đoàn kết quốc tế: Phương pháp đại đoàn kết quốc tế là xây dựng tình đoàn kết hữu nghị hợp tác, cùng phát triển với các dân tộc và giai cấp vô sản các nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người đặc biệt coi trọng và xây dựng tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng anh em trên tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, “vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Thực hiện quan điểm đối ngoại hòa bình, hữu nghị, Hồ Chí Minh đã thể hiện là một nhà ngoại giao mẫu mực, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
2.1. Các nhân tố tác động đến khối đại đoàn kết
2.1.1. Tình hình thế giới
Bước vào thời kỳ đổi mới, tình hình thế giới có nhiều biến động, phức tạp và khó lường:
- Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều nơi.
- Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,…tiếp tục có những diễn biến phức tạp, không một quốc gia riêng rẽ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác.
- Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đấy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia.
- Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,…giữa các nước diễn ra ngày càng gay gắt.
- Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục có những bước tiến mới.
- Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á vẫn tồn tại nhiều nhân tố mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo diễn ra ngày càng gay gắt.
2.1.2. Tình hình trong nước
- Thuận lợi:
+ Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định:
+ Những hạn chế, yếu kém trong xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị dần được khắc phục.
+ Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa.
- Thách thức:
+ Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, tình trạng về suy thoái đạo đức lối sống của một phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân.
+ Các thế lực thù địch, phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chúng còn ra sức phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “ dân tộc”, “tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
+ Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp.
2.2. Thực trạng của khối đại đoàn kết trong thời kỳ đổi mới
2.2.1. Những thành tựu
Thực hiện công cuộc đổi mới 30 năm qua, Đảng ta luôn đề cao vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương, cơ sở đã có những đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng:
- Công tác vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện; tình hình chính trị-xã hội ổn định; vị thế của nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
- Phát huy và thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Tinh thần năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội đã góp phần hình thành phong trào rộng lớn và đa dạng của các tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội đã đề xuất nhiều chủ trương, chính sách với Đảng, Nhà nước liên quan tới lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
- Đảng tăng cường lãnh đạo, cùng với sự phối hợp kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, tập thể và cá nhân cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước .
- Những đổi mới trong nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội đã đóng góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước, góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận và sự đòi hỏi phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta.
- Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước.
*Nguyên nhân:
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, thương nòi, đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước, luôn luôn gắn bó với Đảng, với cách mạng.
- Đảng có đường lối đúng đắn về đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới và ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò, vị trí và sự cần thiết phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc vận động, tập hợp quần chúng thực hiện nhiệm vụ phát triển đất nước
- Có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên và giữa Mặt trận Tổ quốc với chính quyền được thực hiện thường xuyên, nền nếp và mở rộng trên nhiều lĩnh vực, đã tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc phát huy tốt hơn vai trò nòng cốt trong việc tập hợp các lực lượng trong khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, củng cố nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị nước ta.
- Phân công và giới thiệu cán bộ của Đảng để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội bầu giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; phát huy được vai trò chủ động tham mưu và hoạt động tích cực trong phong trào thi đua yêu nước của quần chúng nhân dân.
- Tổ chức đảng và chính quyền các cấp có bước chuyển biến về công tác dân vận.
2.2.2. Những hạn chế
- Một số nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa phù hợp với cơ chế mới, thiếu tính cụ thể, chưa đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của đoàn viên, hội viên. Công tác tuyên truyền, vận động chưa có sức hấp dẫn đối với nhiều đối tượng trong xã hội; chưa thật sự bám sát các chức năng chính yếu của mình, còn thiên về các hoạt động mang tính hình thức, dàn trải, hiệu quả thấp.
- Công tác xây dựng và phát triển tổ chức của các đoàn thể còn nhiều hạn chế, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo.
- Chế độ hiệp thương dân chủ trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa được nghiên cứu, cụ thể hoá để thực hiện thường xuyên, nền nếp; nguyên tắc đồng thuận xã hội chưa được thực hiện khéo léo, nhuần nhuyễn. Công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc với các đoàn thể và giữa các đoàn thể với nhau chưa thật chặt chẽ, thiếu đồng bộ; chưa tạo được sức mạnh tổng hợp.
- Thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội đối với các hoạt động của chính quyền nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế. Công tác giám sát, tham gia xây dựng luật pháp, chính sách và giáo dục pháp luật, đạo đức lối sống cho đoàn viên, hội viên chưa đáp ứng yêu cầu, chưa theo kịp với sự chuyển biến của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Chế độ, chính sách và điều kiện, kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội còn nhiều khó khăn, nhất là ở cấp cơ sở, vùng cao, vùng sâu, miền núi, biên giới, hải đảo.
* Nguyên nhân:
- Sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự chủ động phối hợp và tạo điều kiện của chính quyền các cấp để Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các đoàn thể chính trị-xã hội hoạt động có hiệu quả còn hạn chế. Một số cấp ủy đảng chưa quan tâm lãnh đạo đầy đủ đến đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và quy chế phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, địa phương, cơ sở.
- Một số chính sách của Nhà nước ban hành chưa đồng bộ, hướng dẫn chưa kịp thời, tác động không thuận tới sản xuất, kinh doanh và đời sống, làm cho đoàn viên, hội viên và nhân dân bất bình, ảnh hưởng đến công tác vận động quần chúng.
- Việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội nói riêng, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế là vấn đề mới mẻ, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, do đó nhận thức còn khác nhau, chưa có được những giải pháp phù hợp.
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể các cấp ở một số phong trào, cuộc vận động lớn, cho nên có sự trùng lắp, chồng chéo, hiệu quả thấp. Còn nhiều cơ quan chính quyền nhà nước, cán bộ, công chức coi Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như một tổ chức phụ thuộc và thiếu sự phối hợp trong tổ chức hoạt động phong trào quần chúng.
- Tổ chức bộ máy, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể còn nhiều bất cập. Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng người có đức, có tài, có phẩm chất và năng lực, có uy tín để làm công tác vận động quần chúng. - Một số cấp ủy đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác dân vận; còn mất đoàn kết; cán bộ, đảng viên còn thiếu gương mẫu; sự tha hóa, biến chất làm giảm sút vai trò hạt nhân lãnh đạo và đoàn kết của tổ chức đảng.
- Sự suy thoái về đạo đức lối sống, ý thức công dân, ý thức chấp hành kỷ cương, chính sách pháp luật của một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên còn yếu kém.
- Các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đoàn kết của nhân dân ta. Luôn kích động những vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo”…để gây ly tán, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay
2.3.1. Mục tiêu đại đoàn kết
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.3.2. Quan điểm chỉ đạo đại đoàn kết
- Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hai là, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau,cùng hướng tới tương lai.
- Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước.
- Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
- Năm là, thực hiện nhất quá đường lối đoàn kết quốc tế độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình phát triển.
2.3.3. Nguyên tắc đại đoàn kết
- Thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
- Thứ hai, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
- Thứ ba, tin dân, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn vướng mắc của nhân dân; làm tốt công tác dân vận.
- Thứ tư, đoàn kết quốc tế phải trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; hợp tác bình đẳng cùng có lợi.
2.3.4. Biện pháp đại đoàn kết
2.3.4.1. Xây dựng những chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
* Những chính sách phát triển kinh tế-xã hội:
- Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, lấy phát triển nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ trung tâm; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển văn hóa, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi; thực hiện phương châm ‘dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
* Những chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội:
- Đối với giai cấp công nhân: Đảng chủ trương xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng và chất lượng để ngang tầm nhiệm vụ cách mạng và giữ vững vai trò lãnh đạo. Trong thời kỳ đổi mới, đã ban hành Luật Công đoàn, Luật Lao động nhằm bảo về quyền lợi chính đáng của người lao động và nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Đối với giai cấp nông dân: Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn mới, thực hiện tốt chính sách ruộng đất. Đây là quyền lợi chính đáng cơ bản của nông dân. Đảng đã ban hành nhiều chính sách như kinh tế hộ gia đình, giao quyề sử dụng đất lâu dài cho nông dân, hỗ trợ khuyến khích nông dân áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất, giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, có chính sách bảo hộ sản xuất cho nông dân. Thực hiện có hiệu quả công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
- Đối với đội ngũ trí thức: Đảng ta có chủ trương đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đúng đắn, tạo điều kiện cho họ tiếp nhận những thành tựu mới về khoa học-kỹ thuật, văn hóa, nâng cao kiến thức, trình độ chính trị, khuyến khích và tôn trọng tự do sáng tạo, phát triển tài năng trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến tri thức.
- Đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác: Đảng bảo đảm thực hiện nguyên tắc: quyền lợi và nghĩa vụ đi đôi với nhau, bình đẳng và dân chủ trước pháp luật.
+ Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Làm tốt công tác giáo dục ho thế hệ trẻ, khuyến khích cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
+ Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình.
+ Phát huy truyền thống bộ đội cụ Hồ của cựu chiến binh, tích cự tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Động viên cựu chiến binh tham gia vào các hoạt động của xã hội.
+ Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người cao tuổi.
+ Thực hiện bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Chống các âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, giúp đỡ họ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết, tương trợ, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc. Sẵn sang tạo điều kiện cho kiều bào ở nước ngoài đem hết tài năng, trí tuệ, tiền của để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.3.4.2. Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc
- Thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng Khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong từng tổ chức Đảng. Đảng viên tiên phong gương mẫu, làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân, động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Kết hợp thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ttrong Đảng và chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận Tổ quốc.
- Chăm lo, đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
2.3.4.3. Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc
- Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong tất các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Khắc phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng và nhanh chóng các công việc có quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân, có cơ chế phối hợp và đảm bảo các điều kiện cần thiết để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân làm tốt vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch, vững mạnh.
- Xây dựng phong cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với đạo đức cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
2.3.4.4. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Trong lãnh đạo cách mạng, điều quyết định hàng đầu của Đảng ta là phải xác định đường lối chiến lược đúng đắn. Trong nội dung đường lối, việc xác định lực lượng cách mạng giữ vai trò quan trọng trong sự thành bại của cách mạng.
- Để mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần thực hiện tốt một số biện pháp:
+ Mở rộng Mặt trận Tổ quốc, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội-nghề nghiệp.
+ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phối hợp với các cơ quan nhà nước hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; vận động và giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc trong cộng đồng dân cư.
2.3.4.5. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
- Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền. Giáo dục ý thức chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức cộng đồng trách nhiệm.
- Phát huy vai trò tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, coi trọng lực lượng tuyên truyền miệng nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số và vùng đồng bào có đạo, vùng sâu, vùng xa.
- Phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện các cuộc vận động toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.3.4.6. Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
- Củng cố, tăng cường quan hệ với các Đảng Cộng sản, đảng công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
- Phát triển quan hệ đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, phát triển, công bằng, bền vững, dân chủ và tiến bộ.
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, kiên quyết làm thất bại các âm mưu và hành động xuyên tạc, lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Liên hệ việc thực Đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
* Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện Đại đoàn kết trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
* Nêu lên một số giải pháp nhằm thực hiện Đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
Câu 3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân
a. Nhà nước của dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ, dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, dân tộc. Trong Nhà nước đó phải là tiêu biểu cho khối Đại đoàn toàn dân, tập hợp được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và tài năng tham gia vào công cuộc xây dựng Nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh “Dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức, xây dựng Nhà nước, là sự vận dụng sáng suốt chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, bao nhiêu quyền hạn là của dân, quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân. Trong nhà nước ta, toàn bộ quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Trong Nhà nước ta, người cầm quyền, cán bộ công chức nhà nước chỉ là người được ủy quyền để gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước.
b. Nhà nước do dân
-Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước do dân là dân làm chủ Nhà nước; Nhà nước phải tin dân và dựa vào dân.
Để thật sự là nhà nước của dân, ngay từ những ngày đầu giành được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước. Với tư cách là một nội dung làm chủ nhà nước của nhân dân, quyền bầu cử được ghi rõ trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo và ban hành.
+Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân còn ở quyền bãi miễn các đại biểu, các cơ quan nhà nước nếu không còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích nhân dân.
+Nhà nước do dân nghĩa là dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.
+ Nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
- Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
c. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân.
- Nhà nước phải biết chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân. “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”.
- Nhà nước tồn tại và hoạt động vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động chứ không phải vì quyền lợi của một nhóm người hay một tập đoàn xã hội nào đó.
- Nhà nước phải thật sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Cả cuộc đời Người là một tấm gương trong sáng thể hiện sinh động tư tưởng, đạo đức của một con người suốt đời vì dân, vì nước.
2. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ bản chất giai cấp của nhà nước nói chung.
- Bất kỳ một nhà nước nào cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Không thể có nhà nước đứng ngoài giai cấp, nhà nước phi giai cấp.
- Người khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Như vậy, nội hàm khái niệm “dân” ở Hồ Chí Minh mang nội dung xã hội, giai cấp với “cái lõi” của nó là công nhân, nông dân, lao động trí óc.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản chất là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Thể hiện:
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động theo các nguyên tắc phổ biến của Chủ nghĩa Mác lê nin về nhà nước chuyên chính vô sản.
+ Nhà nước luôn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản..
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ – một nguyên tắc tổ chức đặc thù của giai cấp công nhân.
+ Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc; khối đại đoàn kết toàn dân, mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí.
+ Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất... có sự phân công rành mạch..
+ Nhà nước điều hành và quản lý xã hội bằng pháp luật, mà pháp luật là đại biểu cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của GCCN và đông đảo quần chúng lao động.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước có sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và dân tộc
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Để Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhằm làm cho hoạt động của Nhà nước ta đem lại hiệu quả xã hội thực sự.
- Một nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước hợp pháp và hợp Hiến, được nhân dân tổ chức nên thông qua tuyển cử, được xây dựng và hoạt động theo các nguyên tắc của Hiến pháp.
- Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải thể hiện được việc điều hành và quản lý xã hội bằng pháp luật, người dân sống và làm việc theo luật định.
Luật pháp phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động làm nền tảng để xây dựng Nhà nước, xây dựng xã hội.
Nổi bật trong ý tưởng trị nước của Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “Pháp trị” và “đức trị”.
4. Vấn đề xây dựng bộ máy, cán bộ công chức nhà nước
a. Về xây dựng bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc, và thúc đẩy nhau hoạt động, nhưng mỗi bộ phận lại có một vị trí riêng, cụ thể, có tính tương đối trong toàn bộ bộ máy nhà nước.
Phương châm: xây dựng bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước.
Nguyên tắc:
- Xây dựng Quốc hội thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân, của cả nước..
- Xây dựng Chính phủ thành cơ quan hành pháp cao nhất, thực sự mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân. Xây dựng nền hành chính quốc gia thống nhất trên nền tảng dân chủ, hiện đại...
- Xây dựng bộ máy tư pháp có tính độc lập tương đối, dân chủ, hiện đại, xét xử công bằng theo luật và lương tâm người xử án.
b. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
- Hồ Chí Minh có một quan niệm nhất quán, chuẩn xác, hết sức hiện đại về công vụ, công chức nhà nước.
- Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Theo Người:
+ Cán bộ công chức nhà nước phải vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc.
Người đã Xây dựng quy chế khung thi tuyển cán bộ, viên chức nhà nước vào các ngạch bậc của ngành hành chính.


Câu 4. Tư tưởng Hồ Chí minh về công tác cán bộ
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của người cán bộ
* Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của người cán bộ, Người cho rằng cán bộ là “gốc” của mọi công việc. Người khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
* Cán bộ là “cầu nối”, “dây chuyền”, giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân – muốn vậy người cán bộ phải có phẩm chất đạo đước, trí tuệ, bản lĩnh, phong cách....
Người quan niệm: Đời sống chính trị, kinh tế, xã hội như một “cỗ máy” gồm 3 bộ phận:
Một là: chính sách, đường lối của Đảng và Chính phủ.
Hai là: quần chúng nhân dân, những người thi hành chính sách đó.
Ba là: cán bộ, vị trí vai trò của cán bộ
* Người cho rằng: “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể, có vốn mới làm ra lãi....
Tóm lại: Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ quyết định mọi việc”, Người viết “khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi, cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, tài của người cán bộ
a. Yêu cầu của Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ
* Khái niệm:
- Đạo đức: là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm các quy tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với toàn xã hội.
- Đạo đức cách mạng:
“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.. " (Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.285.)
* Vai trò của đạo đức cách mạng
- Sinh thời, Người chính là hiện thân của đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng cho toàn Đảng noi theo. Chính vì vậy nên Người rất coi trọng đạo đức!
Ở đây chúng ta cần trả lời câu hỏi: vì sao Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đạo đức?
Thứ nhất: Con người cần đạo đức, cách mạng cần đạo đức.
Thứ hai: Hồ Chí Minh rất coi trọng con người và chiến lược về con người, mà ở đây là con người có đạo đức, lấy đạo đức làm đầu.
Thứ ba: Đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét toàn diện và có giá trị dân tộc, nhân loại, hiện tại và tương lai.
+ Đạo đức là gốc, là nền tảng của Người cách mạng...“làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
+ Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần dám hy sinh cái riêng để được cái chung to lớn hơn.
- Từ đó Người chỉ rõ: “tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”.
Tóm lại: Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN; là thước đo chất của mỗi người; là sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. “mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”.
* Yêu cầu đạo đức đối với cán bộ.
- Trung với nước, hiếu với dân: Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và Phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Là mối quan hệ với đất nước với dân tộc.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nước là của dân, dân là chủ của đất nước, cho nên “trung với nước” là trung với dân, trung thành với lợi ích của nhân dân.
Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là “đầy tớ trung thành của dân”, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ với “tự mình”. Người quan niệm Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên.
Cần: là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng xuất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “ không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức”.
Liêm: là “luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “ không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham người khác tâng bốc mình”.
Chính: là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, kinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn... Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của Chính.
Theo Hồ Chí Minh, mặt trái của quyền lực dẽ làm cán bộ, đảng viên tha hóa “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dẽ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
Chí công vô tư: là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc, “ khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Nếu thực hành tốt chí công vô tư gắn liền với chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân – mối nguy hại cho Đảng và cả dân tộc. Tuy vậy cần phân biệt chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân chính đáng.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiêm, liêm, chính.
- Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, yêu thương con người xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. (yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội, là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất).
Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội.
Yêu thương con người là phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; dám hy sinh, dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Yêu thương con người là phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường lạc lối, mắc phải sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp đỡ cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
- Tinh thần quốc tế trong sáng.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với người và với toàn nhân loại, vì Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là “nhà văn hóa lớn của thế giới”, “chiến sĩ lổi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”.
Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức, bất công. Đó là tình đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
* Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt...vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để sửa chữa, khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng.
- Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt, sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “ Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn cho dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
- Xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với chuẩn mực đạo đức mới. Xây phải đi đôi với chống, muốn chống phải xây, chống nhằm mục đích xây.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
b. Yêu cầu của Hồ Chí Minh về năng lực của người cán bộ
Theo Người: Đạo đức là gốc của người cách mạng, tuy vậy người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.
+ Năng lực tổ chức: Động viên, vân động quần chúng thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ..tức là phải biết lo cho dân, phải thực sự là người đày tớ của nhân dân.
+ Năng lực lãnh đạo: xét đến cùng là năng lực phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích vật chất và tinh thần tốt nhất cho nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng có nghĩa là:
- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng...
- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy không có dân chúng giúp sức thì không xong.
- Phải tổ chức kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp đỡ.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phong cách của người cán bộ
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về phong cách của người cán bộ
- Phong cách của người cán bộ, người cách mạng có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng.
+ Tư tưởng, đường lối soi sáng hoạt động của người cán bộ, có ý nghĩa quyết định nhất.
+ Nhưng phải có phương pháp đúng đắn và khoa học để đưa đường lối vào cuộc sống.
- Phong cách người cán bộ quan hệ chặt chẽ với đạo đức (trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư) là những phẩm chất đạo đức chung của người Việt Nam, Nhưng nó lại được thể hiện một cách cụ thể qua phong cách khác nhau của từng người.
- Phong cách của cán bộ là một chỉnh thể bắt đầu từ suy nghĩ đến hoạt động thực tiễn, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng sử và cuối cùng là phong cách trong sinh hoạt đời thường.
b. Người cán bộ tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh
* Rèn luyện phong cách tư duy: đó là Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
+ Độc lập: không lệ thuộc, phụ thuộc, bắt chước, theo đuôi.
+ Tự chủ: làm chủ suy nghĩ của mình, làm chủ bản thân và công việc, tự mình thấy trách nhiệm trước dân.
+ Sáng tạo: sẵn sàng từ bỏ những cái cũ xấu xa, lạc hậu, lỗi thời, những cái cũ đã đúng một thời nay không còn phù hợp. Tìm tòi cái mới hợp quy luật, trả lời được những câu hỏi mà thực tiễn đặt ra. (tránh phủ định sạch trơn)
Tóm lại: Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đồng nghĩa với bản lĩnh vững vàng, một tinh thần dũng cảm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.. Tạo cho mỗi cán bộ có bản sắc riêng, chính kiến riêng, xa lạ với những gì xơ cứng, giáo điều hoặc theo kiểu “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”...
* Rèn luyện phong cách làm việc:
- Tác phong quần chúng:
Lưu ý: Quần chúng là số đông. Vì vậy có nhiều cách tiếp cận về quần chúng. So với cán bộ công chức....nhân dân là quần chúng, trong mối quan hệ với cấp trên thì cấp dưới là quần chúng...so với đảng viên thì người chưa vào đảng là quần chúng.
Kế thừa truyền thống dân tộc 'chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, lật thuyền mới biết dân như nước”.
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – lê nin: quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử.
Người khẳng định: Dẽ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Dân chúng đồng lòng việc gì làm cũng được...Cả cuộc đời Người đã hành động vì dân...
Cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách quần chúng của Người cần phải làm:
+ Phải đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên hết, thể hiện ở chỗ, việc gì có lợi cho dân thì phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh..
+ Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong 10 năm (1955-1965) Người đã có khoảng 700 cuộc đi về các địa phương, xuống với bộ đội, công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân.
+ Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Vấn đề gốc rễ ở đây là cán bộ, đảng viên phải hiểu “đối ai mà làm? Đối ai phụ trách?”
+ Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Mỗi cán bộ phải hiểu rằng con người không phải thần thánh, có thiên, có ác trong lòng. Đã làm việc thì không tránh khỏi khuyết điểm...
+ Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Nhân dân là những người trí tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chúng có nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy..
+ Chống bệnh quan liêu. Tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách quần chúng Hồ Chí Minh, ở một góc tiếp cận khác chính là phải “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”
- Tác phong tập thể, dân chủ.
(nước ta là nước Dân chủ, mọi quyền hành đều từ dân, của dân, cán bộ, đảng viên là đày tớ của nhân dân). Cần coi trọng vai trò là Chủ và làm Chủ của nhân dân. Phong cách dân chủ có nội dung dân chủ trong Đảng và dân chủ với nhân dân.
Dân chủ trong Đảng:
+ Phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể “khôn bầy hơn khôn độc”
+ Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
+ Nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Dân chủ với nhân dân, tức là phát huy quyền làm chủ của nhân dân
+ Dân là chủ là nói đến địa vị, vị thế của người dân trong một nước dân chủ.
+ Dân làm chủ là nói đến năng lực, bổn phận làm chủ của người dân.
- Tác phong khoa học:
+ Làm việc phải đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu, nắm người, nắm việc, nắm tình hình cụ thể. Phải nắm thông tin và sử lý thông tin một cách khoa học.
+ Làm việc phải có mục đích rõ ràng; chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát hợp theo phương châm “Kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi”.
+ Làm việc có kế hoạch, nhưng phải thường xuyên kiểm tra và rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức; kinh nghiệm cá nhân, từng địa phương, ngành, lĩnh vực. Kinh nghiệm thành công và thất bại.
Người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
* Rèn luyện phong cách diễn đạt: thể hiện ở Nói và Viết.
- Phải xác định rõ chủ đề, đối tượng, mục đích của việc nói và viết từ đó tìm ra cách nói, viết phù hợp với đối tượng và rõ chủ đề nhằm đạt mục đích đề ra.
- Viết và nói phải chân thực, không nên nói ẩu, không được bịa ra.
- Nói ngắn gọn mà phải có đầu có cuối, có nội dung, thiết thực, thấm thía.
- Diễn đạt phải trong sáng, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm.
* Rèn luyện phong cách ứng xử:
- Ứng xử là một nghệ thuật, nó thể hiện bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, phong thái, phong độ, nhưng nó chính bắt nguồn từ nhân cách của chủ thể...
- Ứng xử với nhân dân là phải có thái độ ân cần, niềm nở, vừa thân ái vừa nhiệt tình, thể hiện tấm lòng độ lượng, khoan dung, nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, vùi dập con người.
- Ứng xử cần có thái độ khiêm nhường, khiêm nhường thực sự..
- Ứng xử phải rất tế nhị, nhất là đối với các nhân sĩ, trí thức.
* Rèn luyện phong cách sinh hoạt:
Phong cách sinh hoạt của Hồ Chí Minh đã trở nên huyền thoại ngay khi Người còn sống, nó thể hiện triết lý nhân sinh lấy khiêm tốn giản dị làm nền, lấy chừng mực điều độ làm chuẩn, lấy trong sạch thanh cao làm vui, lấy gắn bó với con người, với thiên nhiên làm niềm say mê vô tận.
+ Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện phong cách tronh sinh hoạt hàng ngày, từ cái ăn, cái mặc, đến sử dụng trang thiết bị vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày trong đi lại, ở phòng làm việc.
+ Trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt cho mình một kỷ luật chặt chẽ, giữ nếp trật tự, ngăn nắp, gon gàng, chú ý rèn luyện sức khỏe, sắp xếp thời gian tiến hành mọi việc thật hợp lý và có hiệu quả nhất.







Post a Comment

0 Comments