Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì loài
người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông
muội đến hiện đại như ngày nay, đó là: Thời kỳ công xã nguyên thuỷ, thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ tư bản chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ
nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương thức sản
xuất nhất định. Chính những phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định
sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Và qua nghiên cứu thì theo một phương
thức sản xuất nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song song tồn tại và tác
động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất. Đây là hai yếu tố quan trọng
quyết định tính chất, kết cấu của xã hội.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối
quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất, thể hiện
trình độ trinh phục tự nhiên của loài người trong quá trình tác động vào tự
nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm :
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo
ra, trước hết là công cụ lao động.
-Người lao động với những kinh
nghiệm sản xuất thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của
cải vật chất.
-Tư liệu sản xuất bao gồm : - Đối tượng lao động
- Tư liệu lao
động : + Công cụ lao động
+
Những tư liệu lao động khác
Đối tượng lao động không phải là
toàn bộ giới tự nhiên. mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản
xuất. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn,
mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.
Tư liệu lao động là vật thể hay
phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn
chuyền sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động và
tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp
thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới những tư liệu lao động do thế hệ
trước để lại trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy những tư liệu
lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực
lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng kết hợp với đời sống. Tư
liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động
thì cũng không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất
của xã hội.
Các yếu tố hợp thành lực lượng sản
xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong sự phát triển của hệ thống
công cụ lao động và trình độ khoa học-kĩ thuật, kĩ năng lao động của con người
đóng vai trò quyết định. Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền
sản xuất xã hội. Lênin viết : “Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Do khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp mà thành phần con người cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi.
Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ gồm người lao động chân tay
mà còn cả kĩ thuật viên. kĩ sư và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản
xuất.
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ
kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: Sản
xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh
tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống
vật chất của xã hội. nó tồn tại khách quan. độc lập với ý thức của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Một
kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt
cơ bản sau :
- Quan hệ giữa người với người đổi
việc về tư liệusản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đổi
việc tổ chức quản lý
- Quan hệ giữa người với người đổi
việc phân phối sản phẩm lao động
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ
với nhau. trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những
mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc
vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế
nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về
tư liệu sản xuất :
+ Sở hữu tư nhân
+ Sở hữu xã hội
Những hình thức sở hữu đó là những
quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội. Đương nhiên để cho
tư liệu sản xuất không trở thành “vô chủ” phải có chính sách và cơ chế rõ ràng
để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định.
Trong sự tác động lẫn nhau của
các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân
phối có vai trò quan trọng. Những quan này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu
và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu. Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi
giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống
quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinh tế xã hội ấy. Vì vậy khi nghiên cứu.
xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không thể nào nhìn ở trình độ của
lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất.
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện
trong quá trình tổ chức sản xuất. Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người.
vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kĩ thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế tổ
chức phản ánh trình độ phân công lao động xã hội. chuyên môn hoá và hợp tác hoá
sản xuất. Nó do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất qui định.
I. Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt của phương thức sản xuất. chúng tồn tại không tách rời nhau mà
tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài
người. quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ
sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình. quan hệ sản xuất
tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của
sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn.
- Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành,
biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất, để lao
động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến,
hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo hơn.Cùng với sự phát triển của công cụ
lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kĩ năng sản xuất, kiến
thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố
cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng
lạc hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội
dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của nó.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì hình thức phụ thuộc nội dung,
nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến
đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi phù hợp với tính chất và
trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực sản xuất phát
triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới. quan hệ
sản xuất cũ không còn phù hợp nũa nên buộc phải thay thế bằng mối quan hệ mới
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành. biến đổi. phát triển
của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để
phát triển. nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất:Có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời
không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. bộc lộ mâu
thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời. theo
tính chất tất yếu khách quan thì nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất
có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản
xuất. quy định hệ thống của tổ chức. quản lý xã hội. quy định phương thức phân
phối của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến
thái độ của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội ( con người ). nó tạo ra những
điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động. áp dụng
những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất. hợp tác và phân công lao động.
Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống. một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt :
Quan hệ sở hữu. quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan
hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động
lẫn nhau.
Sự thống nhất và tác động qua lại
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất.
Trong sự thống nhất biện chứng này. sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng
vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường
xuyên vận động. phát triển nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây
là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của
sự phát triển loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển
từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.
II. Liên hệ vận dụng quy luật đó trong thực tiễn ở nước ta.
1. Sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất từ trước đến nay.
Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì loài
người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông
muội đến hiện đại như ngày nay, đó là : Thời kỳ công xã nguyên thuỷ. thời kỳ
chiếm hữu nô lệ. thời kỳ phong kiến. thời kỳ tư bản chủ nghĩa và thời kỳ xã hội
chủ nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương thức
sản xuất nhất định. Chính những những phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
quyết định sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội. trong đó hình thái
kinh tế xã hội thời kì công xã nguyên thuỷ là hình thái sản xuất tự cung tự cấp.
Đây là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng. ở thời kì này lực
lượng sản xuất chưa phát triển. nó chỉ là sản xuất tự cung tự cấp. khi mà lao động
thủ công chiếm vị trí thống trị. Và trong hình thái kinh tế xã hội này do lực
lượng sản xuất chưa phát triển nên kéo theo sự chậm phát triển của quan hệ sản
xuất. Đây là mối quan hệ kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên. khép kín trong phạm vi
nhỏ của từng đơn vị. không cho phép mở rộng mối quan hệ với các đơn vị khác.
Hình thái kinh tế xã hội này còn tồn tại đến thời kì chiếm hữu nô lệ. Đến thời
kì phong kiến sản xuất tự cung tự cấp tồn tại dưới hình thức điền trang. thái ấp
và kinh tế nông dân gia trưởng. Vì vậy mà phương thức sản xuất ở các thời kì
này có tính chất bảo thủ. trì trệ và bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp thoả mãn
tiêu dùng nội bộ từng gia đình.....
Do mỗi hình thái kinh tế xã hội
như vậy nên quan hệ sản xuất của nó cũng tương ứng với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của
lịch sử loài người.
Trong các quy luật khách quan chi
phối sự vận động phát triển các hình thái kinh tế xã hội thì lực lượng sản xuất
bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội. quy định khuynh
hướng phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức
sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ
sản xuất lỗi thời lạc hậu được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu sản xuất mới
cao hơn trong thời kì tư bản chủ nghĩa. Trong thời kì này. Mác nhận định rằng :
“phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại vĩnh viễn. mà chỉ là sự
quá độ tạm thời trong lịch sử. Quá trình phát sinh và phát triển của phương thức
sản xuất này. Nó không chỉ tạo ra tiền đề xã hội mà điều quan trọng là đã tạo
ra những tiền đề vật chất. kinh tế cho sự phủ định sự ra đời của phương thức sản
xuất mới.” đã được trình bầy trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh” của F.Ănghen. Đó
là một tất yếu khách quan theo đúng yêu cầu của quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Từ sự phân tích trên cho thấy
lôgic tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời
của phương thức sản xuất mới - Cộng sản chủ nghĩa về mặt lý thuyết là phù hợp với
quy luật tiến hoá của lịch sử loài người.
Theo quan niệm của C.Mac giai đoạn
này phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở chính nó. Do
đó về mọi phương diện kinh tế. đạo đức, tinh thần còn mang dấu vết của xã hội
cũ. Trong giai đoạn này quyền lợi không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ
kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định.
cho nên phân phối theo lao động là không tránh khỏi. Từ những điểm này có thể
thấy giai đoạn xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng kinh tế chủ yếu sau : Tình độ
xã hội hoá tuy có cao hơn chủ nghĩa tư bản song còn thấp hơn so với giai đoạn
cao của xã hội cộng sản. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai
hình thức chủ yếu : Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Lao động vừa là quyền lợi
vùa là nghĩa vụ. phân phối theo lao động còn mang dấu vết “pháp quyền tư sản”.
Kết thúc giai đoạn thấp. xã hội cộng sản bước lên giai đoạn cao. giai đoạn mà sự
phụ thuộc có tính chất nô dịch của họ vào sự phân công lao động không còn nữa.
cùng với sự phụ thuộc đó sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay
không còn nữa. khi mà lao đông không những là phương tiện để sinh sống mà bản
thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của sự sinh sống. khi mà cùng với sự phát triển
toàn diện của các cá nhân. năng xuất của họ cũng ngày một tăng lên và tất cả
các nguồn mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của các quyền tư sản.
Tóm lại mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vạch ra quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Trong đó sự sản xuất ra đời sống
xã hội của mình. con người ta có những quan hệ nhất định. tất yếu không tuỳ thuộc
vào ý muốn của họ. tức những quan hệ sản xuất. những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội tức là cái cơ sở
hiện thực. trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị
tương ứng với cơ sở thực tại đó có những hình thái ý thức xã hội nhất định.
Phương thức sản xuất chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức con
người quyết định sự tồn tại của họ. trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết
định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng. các lực lượng
sản xuất vật chất của xã hội sẽ gây mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện
có. hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sở hữu. trong đó từ trước
tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất. khi đó bắt đầu thời đại của cuộc cách mạng xã hội.
2. Biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1954 - 1975 ở Việt Nam.
Năm 1954 sau khi hoà bình lập lại
ở miền Bắc. Đảng ta đã thực hiện chủ trương đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Mặc dù chủ trương đua đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội đã được xác định từ đầu thế kỷ XX. nhưng đến thời gian này mới có điều
kiện để đưa đất nước tiến lên theo con đường này. Tuy nhiên sau một thời gian
dài nước ta phải chịu ách thống trị của thực dân Pháp với những chính sách thống
trị “ngu dân” của chúng đã làm cho con người của đất nước chúng ta kém phát triển
và bị tụt hậu. điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng sản xuất. nó làm cho nền
kinh tế nước ta bị tụt hậu rất nhiều năm so với thế giới bên ngoài. Chúng ta đều
biết rằng phương thức sản xuất là cách con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là sự thống nhất
biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. trong đó lực lượng sản
xuất là thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động)
và những người sử dụng những tư liệu này để sản xuất ra của cải vật chất. Trong
lực lượng sản xuất yếu tố con người đóng vai trò chủ thể và quyết định. Con người
chẳng những là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất bằng
sức mạnh cơ bắp. trí tuệ của mình. mà còn không ngừng sáng tạo ra những công cụ
lao động để sản xuất. Từ tình hình lực lượng sản xuất như vậy nên quan hệ sản
xuất trong thời kì này tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau đó là : Sở hữu
cá nhân. sở hữu tập thể và sở hữu tư bản tư nhân. Trong hoàn cảnh phương thức sản
xuất diễn ra như vậy nên Đảng ta đã chủ trương cải tạo : ở thành phố là công tư
hợp doanh còn ở nông thôn là cải cách ruộng đất.
Đảng ta đã quyết tâm đưa miền Bắc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ những chủ trương đổi mới của Đảng ta mà đến năm
1960 quan hệ sản xuất đã có sự thay đổi cơ bản từ hình thức sở hữu tư nhân đưa
lên hình thức sở hữu tập thể. hình thức sở hữu tập thể đưa lên hình thức quốc
doanh. còn hình thức tư bản tư nhân thì vận động lên hình thức công tư hợp
doanh.
Những chủ trương trên đã được Đảng
ta khẳng định trong đại hội Đảng III. Mặc dù quan hệ sản xuất lúc này không còn
được phù hợp chặt chẽ với lực lượng sản xuất. nhưng trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh thì tài sản tập trung trong tay nhà nước và quan hệ phân phối theo
lao động lại là chính sách có hiệu quả để thúc đẩy đất nước đi lên dành thắng lợi
lịch sử mùa xuân năm 1975và thực hiện cải cách miền Bắc thành công.
3. Quá trình tồn tại và phát triển của mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt nam từ năm 1975 đến trước 1986.
Mùa xuân năm 1975 với chiến dịch
Hồ chí minh lịch sử nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Đảng ta chủ trương đưa cả
nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do quá vội vã trong công cuộc đổi mới đất nước nên Đảng ta đã mắc phải
một số sai lầm. Những sai lầm lúc này là : Duy trì quá lâu cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu là tập thể và quốc doanh với
cơ chế “xin cho. cấp phát”. Từ những sai lầm trên đã dẫn đến những hậu quả về
kinh tế xã hội : Các thành phần kinh tế kém phát triển và lâm vào tình trngj khủng
hoảng kinh tế những năm đầu thập kỷ 80. Điều đó cũng chứng tỏ rằng mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là không phù hợp. Một mối quan hệ sản
xuất tiến bộ không thể áp đặt cho một lực lượng sản xuất thấp kém. Đó chính là
bài học cho Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước.
4. Sự biểu hiện của mối quan hệ
từ năm 1986 đến nay
Đứng trước tình hình khó khăn và
những sai lầm đã mắc phải trước đó. đại hội đại biểu toàn quốc khóa VI của Đảng
cộng sản Việt nam đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là
thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức cho đúng mục tiêu và con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. đó không phải là những bước đi tất yếu. hợp quy
luật. Từ đó Đảng cổng sản Việt nam đã quy định ra đường lối chuyển từ mô hình kế
hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc
điểm phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện nước ta hiện nay. Nó cho
phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước. thúc đẩy quá trình
phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực. thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh chóng. Trong các thành phần kinh tế. Đảng khẳng định kinh tế
nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Những thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong
những năm qua đã chứng minh điều đó.
Đại hội đại biểu toàn quốc khoá
VIII của Đảng cộng sản Việt nam nhận định “Nước ta chuyển thời kỳ phát triển mới.
thời kỳ thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá. hiện đại hoá đất nước..... Mục tiêu của
công nghiệp hoá. hiện đại hoá kà xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại. cơ cấu kinh tế hợp lý. quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất... “
Đảng ta còn khẳng định : “Nền
công nghiệp hoá. hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ
xã hội mới. thì việc phát triển nền hành hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng
hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp...”
Nền kinh tế hành hoá nhiều thành
phần mà Đảng ta chủ trương là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Do đó phải chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế
hợp tác. làm cho nền kinh tế nông nghiệp thật sự làm ăn có hiệu quả. phát huy
vai trò chủ đạo. cùng với kinh tế hợp tác xã phấn đấu dần trở thành nền tảng của
nền kinh tế quốc dân.
Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó là: Thời kỳ công xã nguyên thuỷ, thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ tư bản chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Và qua nghiên cứu thì theo một phương thức sản xuất nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song song tồn tại và tác động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất. Đây là hai yếu tố quan trọng quyết định tính chất, kết cấu của xã hội.
0 Comments