CHUYÊN ĐỀ 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC, BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.
Quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị
là một dạng quyền lực trong xã hội có giai cấp. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin quan niệm rằng quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của giai cấp
để đàn áp một giai cấp khác. Như vậy, quyền lực chính trị luôn gắn liền với quyền
lực nhà nước, phản ánh mức độ giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước của những
tập đoàn người trong xã hội để bảo vệ lợi ích của mình, chi phối các tập đoàn
khác. Nói cách khác, quyền lực chính trị phản ánh mức độ thực hiện lợi ích của
một giai cấp, một nhóm người nhất định trong mối quan hệ với các giai cấp hay
nhóm người khác thông qua mức độ chi phối quyền lực nhà nước.
Là một bộ phận của
quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị có những đặc điểm chủ yếu
sau:
- Quyền lực chính
trị bao giờ cũng mang tính giai cấp, phản ánh lợi ích của giai cấp thông qua tổ
chức đại diện của mình là đảng chính trị của giai cấp thống trị.
- Quyền lực chính
trị tồn tại trong mối liên hệ lợi ích khi đặt nó trong quan hệ với giai cấp
khác. Tùy thuộc vào tương quan, so sánh lực lượng mà các giai cấp ở vào vị thế
khác nhau trong quan hệ với việc sử dụng quyền lực chính trị.
- Quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị được thực hiện trong xã hội thông qua phương tiện chủ
yếu là nhà nước. Nhà nước là bộ máy quyền lực đặc biệt nằm trong tay giai cấp
thống trị để hiện thực hóa các lợi ích của giai cấp này trong xã hội trong mối
tương quan với các giai cấp khác.
- Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước có
mối quan hệ qua lại chặt chẽ.
- Quyền lực nhà nước
trong xã hội hiện đại bao gồm 3 nhánh chủ yếu là quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp:
+ Quyền lập pháp
là quyền làm ra Hiến pháp và luật, do cơ quan lập pháp thực hiện.
+ Quyền hành pháp
là quyền tổ chức, quản lý đời sống xã hội theo Hiến pháp, pháp luật.
+ Quyền tư pháp là
quyền đánh giá, phán quyết của nhà nước (được thực hiện bởi toà án) về tính hợp
hiến, hợp pháp của các quyết định, hoạt động của con người, về hoạt động tội phạm,
các tranh chấp dân sự, hành chính theo thủ tục tố tụng.
Theo Hiến pháp năm
2013, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; Chính phủ
là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền
tư pháp.
Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa ba bộ phận quyền lực này ở các nước khác nhau không giống nhau:
trong khi ở các nước tư bản, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc
“tam quyền phân lập” với những biến thể khác nhau thì ở các nước xã hội chủ
nghĩa (XHCN) như ở nước ta, ba nhánh quyền lực này lại không được tổ chức đối
trọng với nhau mà có sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau.
2. Hệ thống chính trị và các yếu tố cấu thành hệ thống
chính trị
a. Khái niệm hệ thống
chính trị
Hệ thống chính trị theo nghĩa rộng là toàn bộ
lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống bao gồm các
tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư tưởng
và các chuẩn mực chính trị. Theo nghĩa hẹp, hệ thống chính trị là một chỉnh thể
các tổ chức hợp pháp thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội, bao gồm các đảng
phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
b. Các yếu tố cấu
thành hệ thống chính trị
Với quan niệm
trên, các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị của một quốc gia hiện đại gồm: Hệ
thống đảng chính trị (trong đó đảng cầm quyền là trung tâm lãnh đạo chính trị của
hệ thống chính trị); Nhà nước là trung tâm của quyền lực công, thực hiện quyền
quản lý xã hội trước hết qua hệ thống pháp luật và các công cụ cưỡng chế; các tổ
chức quần chúng phản ánh lợi ích của những nhóm xã hội nhất định.
3. Hệ thống chính trị nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
a. Bản chất hệ thống
chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống chính trị ở nước ta là hệ
thống chính trị XHCN được hình thành sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945 gắn với với ra đời của Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cùng với sự phát triển của xã hội mới, hệ
thống chính trị của nước ta ngày càng được củng cố, phát triển và hoàn thiện.
Hệ thống chính trị
XHCN ở Việt Nam thể hiện bản chất của nền dân chủ XHCN, là cơ chế để thực thi
quyền lực chính trị trong điều kiện giai cấp công nhân là giai cấp cầm quyền,
liên minh với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức. Như vậy, hệ thống chính
trị trở thành công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và toàn thể nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
b. Nguyên tắc tổ
chức và hoạt động hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống chính trị
nước CHXHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của hệ
thống chính trị XHCN:
- Nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
- Nguyên tắc đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.
- Nguyên tắc tập
trung dân chủ.
- Nguyên tắc quyền
lực nhà nước thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
c. Vai trò của các
tổ chức trong hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống chính trị
ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước CHXHCN Việt Nam; Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức trong hệ thống chính trị vận
hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, được gắn
kết với nhau theo những quan hệ, cơ chế và nguyên tắc nhất định trong một môi
trường văn hóa chính trị đặc thù.
- Đảng Cộng sản Việt
Nam trong hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo
nhà nước và xã hội. Vai trò, vị trí và khả năng lãnh đạo của Đảng được xã hội
thừa nhận thông qua sự nghiệp lãnh đạo của Đảng đối với cả dân tộc trong công
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây
dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
không còn người bóc lột
người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác
tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua
tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị,
tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh
mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
- Nhà nước CHXHCN
Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Nhà nước CHXHCN Việt
Nam là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và
quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để
quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Nhà nước là phương tiện quan trọng
nhất của nhân dân để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhà nước thể chế
hoá, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và thực
hiện quyền quản lý đất nước. Hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
tuy vậy nhà nước có tính độc lập tương đối, với các công cụ và phương thức quản
lý riêng.
Ở nước ta, quyền lực
nhà nước được tổ chức và thực hiện theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật,
tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính
trị - xã hội
Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công đoàn Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội
được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành
viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt
động.
II. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.
Bản chất nhà nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam là sự thể hiện cụ thể bản chất của Nhà nước XHCN. Khoản 1,
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền XHCN, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Bản chất của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam thể hiện ở tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân và tính
thời đại.
- Nhà nước CHXHCN
Việt Nam mang tính giai cấp công nhân, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam.
Tính giai cấp công
nhân là nhân tố suy đến cùng định hướng đúng đắn cho mọi hoạt động của nhà nước,
đảm bảo mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm đạt mục đích dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Nhà nước thực hiện chuyên chính với mọi hành vi
xâm phạm đến lợi ích của đất nước và của nhân dân.
- Nhà nước CHXHCN
Việt Nam là nhà nước của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Đây là nét đặc thù
trong bản chất nhà nước ta, có nguồn gốc sâu xa từ lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
- Nhà nước CHXHCN
Việt Nam mang tính nhân dân sâu sắc.
Nhà nước bảo đảm
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện.
Nhân dân có quyền
tham gia quản lý nhà nước (QLNN) và quản lý xã hội. Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND
và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam có tính thời đại.
Xu thế lớn của thế
giới là hoà bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Nhà
nước CHXHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà
CHXHCN Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân
Đây là nguyên tắc
hiến định, thể hiện rõ bản chất dân chủ của nhà nước ta. Nguyên tắc này được
quy định ở Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 “Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân
làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Nguyên tắc
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được thực hiện bởi sự kết hợp hài
hòa giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tùy vào từng lĩnh vực, phạm vi
hoạt động, nhân dân có thể tự mình thực hiện quyền lực nhà nước hoặc ủy quyền
cho các cơ quan nhà nước thay mặt mình để thực hiện quyền lực nhà nước.
b. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc này được quy định ở Khoản 3, Điều
2, Hiến pháp năm 2013: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”.
Thống nhất quyền lực
nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tập trung
thống nhất ở Nhân dân. Quyền lực nhà nước dù là quyền lập pháp, hành pháp hay
tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là Nhân dân, đều do Nhân dân ủy
quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự
thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của Nhà nước.
Quyền lực nhà nước
là thống nhất nhưng có sự phân công để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước, để Nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả,
quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của Nhân dân. Hiến pháp năm
2013 quy định rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69),
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền
tư pháp (Điều 102). Mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau, mà ràng buộc, kiểm soát lẫn
nhau. Cả ba quyền đều phải phối hợp với nhau, phải hoạt động một cách nhịp
nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà nhân dân giao thông
qua quy định của Hiến pháp và pháp luật.
c. Nguyên tắc tập
trung dân chủ
Nguyên tắc này được
quy định ở Khoản 1, Điều 8, Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Với nguyên tắc này, toàn bộ bộ máy nhà nước đều được tổ chức và hoạt động
trong sự phối kết hợp hài hòa giữa các yếu tố tập trung và dân chủ. Yêu cầu cơ
bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
là bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của cơ quan nhà nước cấp trên với
việc mở rộng dân chủ rộng rãi để phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới
nhằm đạt hiệu quả cao trong QLNN.
Sự kết hợp giữa tập
trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào
tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
d. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước
Nguyên tắc này được
quy định ở Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Đây là nguyên tắc xuyên suốt tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm giữ vững bản chất của nhà nước
XHCN, giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng tổ chức và hoạt động
của nhà nước. Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của
nhà nước nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý
công việc nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị, Nhà nước và được cụ thể hóa tại Điều 41 của Điều lệ Đảng, đó
là:
- Đảng lãnh đạo
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội bằng Cương lĩnh chính
trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ
và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
- Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách
nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về
công tác cán bộ.
- Đảng giới thiệu
cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.
- Tổ chức đảng và
đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính
trị - xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức
đảng lãnh đạo việc cụ thể hoá thành các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ
trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
3. Bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Bộ máy nhà nước là
hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên
tắc chung, thống nhất, nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Bộ
máy nhà nước ta hiện nay bao gồm những cơ quan sau đây:
a.
Quốc
hội
Điều 69, Hiến pháp
năm 2013 xác định vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam. Với vị trí và tính chất như vậy, Quốc hội có các chức năng cơ
bản sau:
- Thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp;
- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
- Giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước.
Các chức năng nói
trên của Quốc hội được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm
2013. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm: Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội. - Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội thành lập,
là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm có: Chủ tịch
Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên. - Hội đồng dân tộc là cơ
quan của Quốc hội, có trách nhiệm nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công
tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các Ủy viên.
- Các Ủy ban của Quốc hội là cơ quan do Quốc hội
thành lập ra để giúp Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ủy
ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên.
b. Chủ tịch nước
Theo quy định của
Điều 86 Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt
nước CHXHCN Việt Nam về mặt đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu
ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chủ
tịch nước phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 88 Hiến pháp năm 2013, bao gồm
hai nhóm nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Nhóm nhiệm vụ,
quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nhà nước về đối nội và đối
ngoại như: cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại
sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc
tế nhân danh nhà nước CHXHCN Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình
Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc
gia nhập điều ước quốc tế trừ trường hợp cần Quốc hội phê chuẩn; căn cứ vào nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, quyết định cử, triệu
hội đại sứ đặc mệnh toàn quyền của CHXHCN Việt Nam, phong hàm cấp đại sứ; quyết
định cho thôi, nhập quốc tịch Việt Nam; thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân
dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh ...
- Nhóm nhiệm vụ,
quyền hạn liên quan đến các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp như: Công bố
Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của
Chính phủ; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ...
c. Chính phủ
Điều 94, Hiến pháp
năm 2013, xác định vị trí, chức năng của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp
hành của Quốc hội. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được quy định tại Điều
96 Hiến pháp năm 2013. Đó là những quy định cụ thể hóa chức năng của Chính phủ
là thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước; bảo đảm hiệu lực của bộ
máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến
pháp và phát luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân. Chính phủ gồm: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng
và Thủ trưởng cơ ngang bộ.
Thủ tướng Chính phủ
do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, theo sự đề cử của Chủ tịch nước.
Thủ tướng Chính phủ là người lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo và chịu
trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia.
Phó Thủ tướng
Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng
Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân
công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng
Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ
và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên
khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
d. Tòa án nhân dân
Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.”
Như vậy, trong tổ chức bộ máy nhà nước chỉ có tòa án mới có thẩm quyền xét xử.
Xét xử là chức năng cơ bản của Tòa án nhân dân. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án
nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
đ. Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107, Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp”.
Thực hành quyền
công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.
Kiểm sát hoạt động
tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật..
Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện hai chức năng trên để đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
e. Chính quyền địa
phương
Chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước CHXHCN Việt Nam. Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) được
tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt do luật định.
- HĐND
Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND được
quy định tại Điều 113, Hiến pháp năm 2013: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do
Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện
nghị quyết của HĐND”.
HĐND có hai chức
năng chủ yếu sau đây:
+ Quyết định những
vấn đề quan trọng ở địa phương như chủ trương, biện pháp để phát huy tiềm năng
địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương,
làm tròn nghĩa vụ của địa phương với cả nước.
+ Thực hiện quyền
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện
các nghị quyết của HĐND.
HĐND gồm có Thường
trực HĐND, các ban của HĐND, tổ đại biểu HĐND (đối với cấp tỉnh và cấp huyện),
đại biểu HĐND.
Thường trực HĐND
là cơ quan thường trực của HĐND, thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của pháp luật; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND.
Ban của HĐND là cơ
quan của HĐND, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước
khi trình HĐND, giám sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ
trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND.
- UBND
UBND ở cấp chính
quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu và là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên. UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND và thực hiện các nhiệm vụ do cơ
quan nhà nước cấp trên giao.
UBND là cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chủ yếu, quan trọng của UBND, mang
tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và đối với mọi đối
tượng trên địa bàn địa phương. UBND cấp dưới chịu sự chỉ đạo của UBND cấp trên
trực tiếp và chịu sự quản lý thống nhất của Chính phủ.
UBND gồm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể Phó Chủ tịch UBND các cấp do Chính
phủ quy định.
Cơ quan chuyên môn
thuộc UBND được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện, là cơ quan tham mưu, giúp UBND
thực hiện chức năng QLNN về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên.
Cơ quan chuyên môn
thuộc UBND chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND,
đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan QLNN về ngành,
lĩnh vực cấp trên.
g. Hội đồng bầu cử
quốc gia
Hội đồng bầu cử quốc
gia là một thiết chế mới được thành lập theo Hiến pháp năm 2013 nhằm đảm bảo sự
khách quan cho công tác bầu cử của Quốc hội và HĐND các cấp. Điều 117 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập,
có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu
cử đại biểu HĐND các cấp”.
Cơ cấu tổ chức của
Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch
Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
h. Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán nhà nước
là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Tổng Kiểm toán nhà
nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng
Kiểm toán nhà nước do luật định. Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và
báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc
hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
III. XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.
Khái quát về nhà nƣớc pháp quyền
Để nhà nước phát
huy tốt vai trò quản lý của mình, cần phải xây dựng nhà nước theo hướng pháp
quyền. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công
và phối hợp khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, đồng
thời có cơ chế kiểm soát quyền lực. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật có tính nhân đạo, công bằng, vì lợi
ích chính đáng của con người.
Nhà nước pháp quyền
không chỉ là phương thức tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước mà còn chứa đựng
trong đó các nguyên tắc hợp lý của quản lý xã hội được đúc kết qua lịch sử, vì
vậy những giá trị của nhà nước pháp quyền có tính nhân loại. Tuy nhiên, với mỗi
chế độ chính trị có hình thức biểu hiện của nhà nước pháp quyền không giống
nhau. Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân; bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân, bảo đảm dân chủ XHCN.
2. Đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
a. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam đối với
cách mạng Việt Nam nói chung và việc xây dựng và hoạt động của nhà nước nói
riêng là một tất yếu khách quan. Điều đó được khẳng định qua vai trò lãnh đạo
không thể thiếu của Đảng Cộng sản trong suốt quá trình tuyên truyền, lãnh đạo,
tổ chức và dẫn dắt dân tộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước
và đi lên chủ nghĩa xã hội.
b. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Nhà nước pháp quyền
về bản chất là một nhà nước tôn trọng, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật đồng thời phải bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân. Phát huy dân chủ trong hoạt động của nhà nước là một đòi hỏi tất yếu của
nhà nước pháp quyền XHCN.
c.
Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật
Hiến pháp và pháp
luật Việt Nam phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, vì vậy, đó là thước đo giá trị phổ biến trong xã hội và cần
phải trở thành công cụ để quản lý của nhà nước.
Nhà nước cần ban
hành hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh để dùng làm công cụ điều chỉnh mọi
quan hệ xã hội, làm căn cứ để xây dựng trật tự xã hội. Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, viên chức và mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đều
phải tôn trọng Hiến pháp, pháp luật, đặt mình trong vòng pháp luật, thực hiện
các hoạt động tuân thủ theo pháp luật.
d. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải phản
ánh được tính chất dân chủ trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và xã hội,
bảo vệ quyền con người
Một nhà nước chỉ
được coi là nhà nước pháp quyền khi nó bảo vệ, bảo đảm được quyền con người quyền
công dân. Nhà nước pháp quyền XHCN chỉ xây dựng thành công khi phát huy được
dân chủ XHCN với tư cách là một nền dân chủ thực sự cho Nhân dân.
đ. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp
Sự thống nhất quyền lực thể hiện trước hết ở sự
thống nhất về mục đích của quyền lực: tất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
có nghĩa là các cơ quan nhà nước dù làm nhiệm vụ lập pháp, hành pháp hay tư
pháp đều là cơ quan thống nhất của nhân dân, để phục vụ và bảo vệ cho lợi ích của
nhân dân. Như vậy, quyền lực nhà nước thống nhất phải thể hiện sự tập trung quyền
lực vào các cơ quan đại diện của dân, trước hết là cơ quan đại diện cao nhất là
Quốc hội để có thể thống nhất bảo vệ một mục tiêu chung là độc lập dân tộc và lợi
ích của nhân dân, đất nước và dân tộc, đi lên CNXH.
Tuy nhiên, mỗi
nhánh quyền lực đều có đặc thù riêng và có những đặc điểm kỹ thuật riêng: hoạt
động hành pháp không thể giống với hoạt động lập pháp hay tư pháp. Do đó, để
nâng cao chất lượng hoạt động cần phân công thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp cho các cơ quan khác nhau, song sự phân công này không giống như
“tam quyền phân lập” ở các nước tư bản, không phải là chia để đối trọng, khống
chế lẫn nhau mà các cơ quan thực thi quyền lực này lại có mối liên hệ với nhau
để đạt mục tiêu chung.
2.
Sự cần thiết phải xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Việc xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay xuất phát từ tất yếu kinh tế, là một
nhu cầu chính trị khách quan. Thông qua xây dựng nhà nước pháp quyền, Nhà nước
ta mới có thể xác định đúng chức năng và nhiệm vụ, vị trí và vai trò của mình
trong hệ thống chính trị nói riêng và trong đời sống chính trị nói chung. Đến
nay, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được định hình trên những nét cơ bản
và trở thành trụ cột của hệ thống chính trị nước nhà. Xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam cũng góp phần xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN, xây dựng
và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước và hệ thống
tổ chức thực thi quyền lực - hệ thống chính trị - được xác định đúng đắn và có
hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều ưu điểm, quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta hiện nay cũng còn bộc lộ nhược
điểm cần khắc phục như: chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công,
phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp; tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt
động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực
sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả; chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức
năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực
nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ,
nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng
chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ luật
trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính
còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp,
phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường
kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả ở nhiều nơi chưa
cao. Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng.
Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng
nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng.
Những hạn chế,
khuyết điểm nói trên đặt ra yêu cầu khách quan phải đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động của bộ máy nhà nước để phát huy dân chủ XHCN, thực hiện tốt quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, phát triển kinh tế thị trường tạo cơ sở vật chất
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
4. Những định hƣớng cơ bản trong
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay
a. Tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo được là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải
thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển
biến tích cực, đạt kết quả cao. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng
bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống
chính tr theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
b. Hoàn
thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của nhà nước theo quy định của Hiến
pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ
giữa nhà nước và thị trường.
Đẩy mạnh việc hoàn
thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ
để nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám
sát quyền lực nhà nước.
Xác định rõ cơ chế
phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền
hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp
trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền.
Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền
địa phương.
c. Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối
với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định
rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch
thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức,
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử.
Về chính quyền địa
phương: Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của
nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của
mỗi cấp chính quyền địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hoàn
thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định.
e.
Chú trọng công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
Đảng tập trung
lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính
sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ
trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có
trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Hoàn
thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi
công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm
trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức
0 Comments